NGUYÊN QUÂN
Cảm nhận Phước Tích
Đi ngược quá khứ hàng trăm năm
Đường liên xóm đất thô chen cỏ dại
Làng ôm đồm mấy mươi ngôi nhà rường cũ kỷ
Trên mấy vì kèo giọng mối mọt ru đêm
Cây thị đứng ngàn năm chưa biết mỏi
Miếu cổ giao thoa văn hóa quần cư
Hương khói nhân thần nhòa nhập thiên thư
Rơi một quả thảo thơm vào hồn nhiên quê quán
Sông Thác Ma cuối dòng hóa hình nghiêng mực
Ngọn bút phì nhiêu vẽ hạo khí địa linh
Bao thế hệ sản sinh người dạy chữ
Nên làng hiền hòa cổ kính trang nghiêm
Giữa biên độ dòng Ô Lâu chiều chấp chới
Bên nớ bên tê địa bạ chẳng trùng tên
Sinh bên ni tử quy về bên nớ
Ven đôi bờ lau dại trắng mùa bông
Đặt bàn tay lên chiếc lò gốm nâu đen
Cảm nhận tiếng tí tách truyền tích ngọn lửa
Chiếc bình rạn sẹo lò trăm năm trước
Đã trở thành vật báu biểu tượng thời gian
Làng tĩnh mịch tiếng chổi mòn kéo lê sân gạch
Những người già tẩn mỉ quét bóng mình
Chiều Phước Tích chợt thèm vị ngọt bùi vả trộn
Hái từ mảnh vườn lên khói bếp lênh loang
Ký họa Diệu Đế
Cúi thấp xuống từng bậc thềm gạch cổ
Gom nhặt vết thời gian trí nhớ mông lung
Phía bên Hàng Bè không còn gọi vọng... đò không
Trả lại một bờ nước lên xanh soi mặt phố
Ngẩn đầu lên mái cổ tam quan rêu đọng
Lối đi vào cổng đóng kín cài then
Sân chùa mưa óng lên màu tĩnh tại
Tiếng mỏ hữu tình gõ nhịp chày kinh
Bức ký họa ngoằn ngoèo hoa văn con nghê đá
Của anh chàng họa sĩ bắt đầu nhòe những hạt mưa
Ngày ngả chậm phai mờ chân dung cổ độ
Có khắc họa tận cùng nỗi niềm hóa đá thiên thu
Chiều Diệu Đế tiếng chuông công phu bát nhã
Độ bóng thuyền chài đễnh đãng nương sông
Cơn mù mưa bất chợt rụng hạt lông bông
Loang trên sóng ánh đèn dầu vạn đò ký ức
Hình như trăm năm rơi vào tĩnh mịch
Tháp hóa thân câu kệ vô ngã sắc không
Những dáng người phóng sinh lóng ngóng xa trông
Mùa cỏ ướt in đậm dấu chân trầm tư nhân thế
(TCSH398/04-2022)