Tạp chí Sông Hương - Số 175 (tháng 9)
Di sản Huế -10 năm hội nhập và phát triển
08:35 | 09/06/2009
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
Di sản Huế -10 năm hội nhập và phát triển

Với một hệ thống di tích kiến trúc nghệ thuật dày đặc trên phạm vi hơn 500ha bao gồm thành quách, cung điện, vườn cảnh, cầu, hồ..., Kinh thành Huế là nơi hội tụ của những giá trị đặc sắc về kiến trúc, cảnh quan độc đáo. Vượt ra ngoài phạm vi của kinh thành, các di tích khác của Huế trải dài theo một vùng núi Ngự sông Hương thơ mộng với hàng loạt các lăng tẩm, nhà vườn, chùa chiền..., hình thành nên một quần thể di tích đa dạng mang phong cách đặc trưng của vùng Huế.

Theo thống kê tổng hợp từ điều tra di tích do Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế  (TTBTDT CĐ Huế) thực hiện thì toàn bộ khu di tích lịch sử và văn hoá Huế có tổng diện tích là 5.696.237,65m2. Số liệu thống kê năm 1982 cho thấy hơn một nửa trong tổng số 147 công trình ở khu vực Đại Nội, nơi tập trung các cung điện nguy nga tráng lệ nhất, đã trở thành phế tích; hầu hết các kiến trúc gỗ còn lại đều bị mối mọt hủy hoại. Hàng chục ngàn mét vuông sân vườn bị hoang phế, gần một trăm nghìn mét khối ao hồ cần được nạo vét, phần lớn hệ thống thoát nước, đường, cầu,...bị hư hỏng. Hậu quả của chiến tranh kéo dài hơn nửa thế kỷ thật vô cùng nặng nề. Niềm tự hào khi Quần thể Di tích Cố đô Huế được chính thức ghi nhận là địa danh thứ 410 trong danh mục Di sản Thế giới cũng đồng nghĩa với việc Nhà nước và Chính quyền địa phương cũng như nhân dân Thừa Thiên Huế với những người trực tiếp quản lý Di sản chính thức gánh vác trách nhiệm vô cùng to lớn trước dân tộc và nhân loại về sứê mệnh bảo tồn và khôi phục Di sản ấy để xứng đáng với tầm vóc quốc gia và quốc tế.

Ngày 12/2/1996, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức phê duyệt Dự án Quy hoạch bảo tồn và Phát huy giá trị di tích Cố đô Huế (1996-2010) kèm theo Quyết định 105/TTg với ba nội dung cơ bản: khẳng định quan điểm bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Văn hoá Huế; xác định rõ ba mục tiêu phải bảo tồn: văn hóa vật thể, phi vật thể và cảnh quan thiên nhiên gắn liền với đô thị; xác định tổng vốn đầu tư là 720 tỉ đồng với 3 giai đoạn trong thời gian từ 1996 đến 2010. Quyết định này đã tạo cơ sở pháp lý cho UBND Tỉnh Thừa Thiên- Huế, Bộ Văn hoá - Thông tin và các Bộ, Ban ngành trung ương phối hợp triển khai chỉ đạo TTBTDT CĐ Huế triển khai thực hiện có hiệu quả dự án nêu trên nhằm tạo bước phát triển bền vững cho công cuộc bảo tồn Di sản Văn hoá Huế.

Nội dung chính của Giai đoạn 1 (1996-2000) và giai đoạn II(2001-2005) bao gồm:
-Lập hồ sơ của tất cả các di tích hiện tồn và đã mất;
-Xác định rõ phạm vi ranh giới các khu vực quản lý bảo vệ, thực hiện giải pháp dãn dân và di dân ở các khu vực trọng điểm;
-Bảo quản tất cả các di tích đang bị xuống cấp (chống sập, chống dột, chống mối mọt, chống cây cối xâm thực); tu bổ khẩn cấp và tu bổ hoàn nguyên những công trình kiến trúc thuộc ưu tiên I đã có đủ căn cứ khoa học;
-Cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng, trước hết là hệ thống thoát nước, đường, điện ở các di tích (khu vực Đại Nội, Bảo tàng, các lăng...);
-Kiểm kê, phân loại, bảo quản hiện vật;
-Thực hiện có hệ thống chương trình nghiên cứu khoa học, tuyên truyền giáo dục.

Kết thúc giai đoạn đầu tiên và những năm đầu của giai đoạn hai (1996-2003), sự nghiệp bảo tồn Di sản văn hoá Huế đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ. Tất cả các di tích đều đã được bảo quản cấp thiết và gia cố chống hư hại. Hầu hết các công trình di tích và cơ sở hạ tầng có mức độ hư hỏng từ 40 % đến 70% đã được lập dự án tu bổ và được phê duyệt, trong đó có GẦN 80 công trình đã được tiến hành tu bổ với nhiều mức độ khác nhau: tu bổ từng phần (điện Long An, Ngọ Môn, điện Thái Hòa, điện Long An, Kỳ Đài...), tu bổ hoàn nguyên (Quảng Đức, Cung Diên Thọ, điện Minh Thành, hệ thống kè hồ Kim Thuỷ...), tu bổ, tôn tạo thích nghi và tái sử dụng (Duyệt Thị Đường, hệ thống sân Đại Triều, quảng trường Ngọ Môn, vườn cảnh...), nâng cấp hạ tầng để tạo điều kiện cho việc quản lý, bảo vệ và tham quan ở khu vực Đại Nội, cải tạo và nâng cấp hệ thống điện chiếu sáng tại các di tích khác như lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, lăng Khải Định, đàn Nam Giao, lắp đặt hệ thống bia biển hướng dẫn du khách...

Hướng tới các nguyên tắc khoa học về bảo tồn và đáp ứng các điều luật của công ước quốc tế, việc tu bổ, tôn tạo di tích được thực hiện với sự phối hợp của các nhà khoa học, các chuyên gia trong lĩnh vực bảo tồn, các kỹ sư, kiến trúc sư, các nghệ nhân truyền thống...Từ năm 1999, công tác tu bổ đã gắn liền với hoạt động thám sát khảo cổ học mà nổi bật làì 8 công trình tiêu biểu gắn liền với sự hợp tác của các cán bộ, chuyên gia khảo cổ thuộc Bảo tàng Lịch sử Việt Nam:

Cung Diên Thọ
Lầu Tứ phương Vô sự
Cung Trường Sanh
Hồ Tịnh Tâm
Vườn Thiệu Phương
Trường lang
Duyệt Thị Đường
Nhà hát Cửu Tư Đài (cung An Định)

Tổng kinh phí đầu tư cho công tác tu bổ trong 10 năm qua (từ 1993-2003) là 179 tỷ đồng, trong đó:
Ngân sách Trung ương: 94 tỷ VNĐ
Ngân sách địa phương: 57 tỷ VNĐ
Tài trợ quốc tế: tương đương 28 tỷ VNĐ (cả trang thiết bị và hiện vật)

Tính từ năm 1990 đến nay, nhiều công trình đã nhận được sự giúp đỡ quý báu về mặt tài chính cũng như sự ủng hộ nhiệt tình về mặt tinh thần của cộng đồng quốc tế, bao gồm nhiều tổ chức và quốc gia trên thế giới: Nhật Bản, Pháp, Canada, Lào, Thái Lan, Mỹ, Ba Lan, Anh, các công ty của Anh, của Pháp, tổ chức CODEV (Pháp), tổ chức UNESCO, Toyota Foundation, Ford Foundation, Hội Thương mại Việt Mỹ (Honolulu, Mỹ), World Monuments Fund, UB Di sản Thế giới của UNESCO, tổ chức CECI (Canada)...

Hơn 10 cuộc Hội thảo có tầm cỡ quốc gia và quốc tế bàn về vấn đề Bảo tồn Di sản Văn hoá Huế và định hướng phát triển cho công cuộc bảo tồn đã được tổ chức tại Huế, với sự tham gia của nhiều đại diện từ các châu lục khác và những ý kiến đóng góp hết sức giá trị. Ngoài ra còn có nhiều  Hội nghị báo cáo khoa học, Lễ đón nhận tài trợ của các tổ chức quốc tế, các Kỳ họp của Nhóm công tác Huế-UNESCO...được tổ chức với sự tham gia và đóng góp chủ đạo của TTBTDT CĐ Huế.

Song song với công tác trùng tu di tích, các ngành nghề thủ công truyền thống phục vụ công tác tu bổ cũng được chú trọng bảo tồn. Xưởng Sản xuất vật liệu truyền thống của TTBTDT CĐ Huế đã sản xuất thành công và cung cấp ngói tráng men Thanh lưu ly và Hoàng lưu ly cho 30.000m2 mái lợp của các cung điện. Ngành nghề sơn thếp, nề ngoã, hội họa, lắp ghép sành sứ, mộc, đúc đồng truyền thống. Đặc biệt là việc phục hồi các y phục cung đình cũng như các đồ thờ tự tại cung điện và các nghệ nhân nghề thủ công của địa phương được hỗ trợ, tạo việc làm để khuyến khích phục hồi và phát triển theo định hướng bảo tồn, mang lại hiệu quả thiết thực.

Bên cạnh đó, một trong những mục tiêu của công cuộc bảo tồn Di sản Văn hoá Huế là bảo tồn các giá trị văn hoá phi vật thể, cụ thể là các giá trị văn hoá truyền thống cung đình, bao gồm: nhạc cung đình, múa cung đình, tuồng cung đình và lễ hội cung đình. Trong những năm qua, TT BTDT CĐ Huế đã kết hợp với các trường Đại học, Trung học Nghệ thuật, các nghệ nhân nhạc truyền thống ở Huế và chuyên gia Nhật Bản đào tạo diễn viên, xây dựng nội dung và thành lập Nhà hát Nghệ thuật Cung đình. Sau 9 năm thành lập (1994-2003), Nhà hát đã đạt được một số thành tựu đáng kể, tập trung vào các khía cạnh:

-  Sưu tầm nghiên cứu và bảo tồn 10 nhạc chương trong lễ Tế Giao, 9 nhạc chương trong lễ tế Miếu, 5 nhạc khúc trong lễ Đoan Dương, Vạn Thọ và Tết Nguyên đán, 40 nhạc khúc thường được diễn tấu với đội Tiểu nhạc, 14 nhạc khúc kèn dùng trong Đại Nhạc, 10 nhạc khúc diễn tấu khi vua ngự.... Ngoài ra, 15 điệu múa cung đình cũng đã được sưu tầm nghiên cứu, trong đó phục hồi được 7 điệu múa như: Trình tường tập khánh,  Nữ tướng xuất quân, Lân mẫu xuất lân nhi, Song phụng, Vũ phiến, Hoa đăng lục cúng, Long hổ hội; dàn dựng 13 điệu múa nâng cao như Huyền Trân, Lộng Điệp, Xẩm Huế, Phách nhịp du xuân...

- Nghiên cứu dàn dựng 2 vở tuồng Ngọn lửa Hồng sơn (tuồng cổ) và Người khởi nghiệp Đàng Trong (tuồng lịch sử); 13 trích đoạn tuồng phục vụ cho lễ hội và giao lưu văn hoá nghệ thuật,

- Ghi băng hình tư liệu về các nghệ nhân biểu diễn nhạc và tuồng Huế

- Lập hồ sơ khoa học điệu múa cung đình Tam quốc Tây du Long hổ hội;

- Nghiên cứu, chọn lọc, biên soạn kịch bản và chuẩn bị phục hồi lễ Truyền lô (lễ Xướng danh Tiến sĩ), lễ Tế Giao, lễ Tế đàn Xã Tắc

Các tiết mục của Nhà hát đã được tham gia biểu diễn tại các liên hoan sân khấu trong và ngoài nước: Liên hoan nghệ thuật tại Nha Trang (1996), Hội thi Âm nhạc dân tộc tại Tp. Hồ Chí Minh (1998), biểu diễn ca múa nhạc chào mừng Sài Gòn 300 năm (1998), Hội nghị Kêu gọi đầu tư tỉnh Thừa Thiên Huế tại Hà Nội (2002), biểu diễn phục vụ Quốc hội và Chính phủ (2002), Liên hoan sân khấu quốc tế lần thứ nhất tại Hà Nội (2002), Liên hoan sân khấu chuyên nghiệp khu vực miền Trung tại Đà Nẵng (2003), biểu diễn tại Hàn Quốc, Philippin...Nhiều tiết mục đã đoạt huy chương vàng, bạc, đồng trong các kỳ hội diễn.

Hàng chục cuộc trưng bày triển lãm giới thiệu văn hoá Huế đã được tổ chức trong và ngoài nước, trong đó có triển lãm Tuần Văn hóa Huế nhân kỷ niệm 5 năm Huế - Di sản Văn hóa Thế giới tổ chức tại Huế và Hà Nội; triển lãm 300 năm Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh tại thành phố Hồ Chí Minh; triển lãm Kỷ niệm 25 năm ngày giải phóng Thừa Thiên-Huế; triển lãm 990 năm Thăng Long-Hà Nội tại thủ đô Hà Nội; triển lãm Các đô thị Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh, triển lãm Kỷ niệm 25 năm ngày Quốc khánh nước CHCDND Lào tại nước bạn Lào; Hội chợ quốc tế ở Vương quốc Bỉ; triển lãm Mùa xuân tôn vinh văn hoá dân tộc tại Hà Nội...

UNESCO cũng phối hợp với TTBTDT CĐ Huế tổ chức nhiều cuộc triển lãm Di sản Văn hoá Huế ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế giới như Pháp, Bỉ, Nhật Bản, Thái Lan, Mỹ... Hiện nay, một số cổ vật của di tích Huế cũng đang cùng với cổ vật của các bảo tàng Việt Nam khác tham gia một cuộc Triển lãm quốc tế mang tên “Việt Nam-Qúa khứ và Hiện tại” (Vietnam-the past and present) tổ chức tại Bảo tàng Lịch sử và Mỹ thuật Hoàng gia Bruxelle (Vương quốc Bỉ) và sau đó là Bảo tàng Dân tộc học Viên (Áo) để giới thiệu về con người và đất nước Việt Nam.

Bên cạnh đó, không thể không kể đến những thành tựu đã đạt được trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và nâng cao giá trị Di sản Văn hoá Huế. Bộ hồ sơ đệ trình lên UNESCO để Quần thể di tích Huế được chính thức ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới là một nỗ lực to lớn của công tác nghiên cứu khoa học, tạo nền tảng cho những bước tiếp theo trên chặng đường dài giữ gìn và phát huy các giá trị của Di sản. Từ đây, các hoạt động nghiên cứu khoa học thực sự đi vào chiều sâu và có tính thực tiễn, làm cơ sở cho các hoạt động khác. Hàng trăm bộ hồ sơ khoa học phục vụ cho công tác tu bổ đã được thực hiện, trong đó có Dự án Quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di tích Cố đô Huế 1996-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, hồ sơ về Nhạc Cung đình Huế xin công nhận là Kiệt tác Văn hoá phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, cùng hàng chục hồ sơ khoanh vùng bảo vệ và hàng ngàn hồ sơ hiện vật, gần 80 dự án khả thi đã được UBND tỉnh, Bộ VHTT và Chính phủ phê duyệt, các dự án phục vụ cho việc chỉnh trang nội thất các cung điện Huế: dự án chỉnh lý trưng bày nội thất Thế Tổ Miếu, dự án phục chế đồ sứ, phục chế y phục cung đình... Hàng loạt sách nghiên cứu, sách tham khảo, tập san, tạp chí, tuyển tập đã được TTBTDT CĐ Huế xuất bản. Nhiều công trình được đánh giá cao, thể hiện thái độ nghiên cứu nghiêm túc, khoa học. Bản thân đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên môn cũng đã chọn được những đề tài hay, bổ ích và đã có những ấn phẩm, những bài viết đăng trên các tạp chí, tập san...trong và ngoài nước.

Việc xã hội hoá công tác bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Văn hóa Huế cũng được đẩy mạnh bằng các cuộc thi tìm hiểu về di tích Huế trong học đường, thi thiếu nhi vẽ tranh về di tích Huế, khuyến khích sưu tầm các tài liệu, hiện vật liên quan đến di tích, ghi băng hình các nghệ nhân hoặc thu thập thông tin từ các chứng nhân sống đã từng làm việc tại các di tích Huế...

Những thành tựu trong tu bổ di tích và bảo tồn Di sản Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát huy các giá trị văn hoá, làm động lực để phát triển du lịch địa phương. Lượng khách tham quan đến Huế tăng từ 243.000 người năm 1993 đến 1.335 337 người năm 2002 (chưa tính lượng khách tham quan thuộc các đối tượng miễn giảm như thương binh, cán bộ hưu trí, sinh viên học sinh, cựu chiến binh...), với tổng doanh thu năm 2002 là 33.697.267.000VNĐ. Sáu tháng đầu năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS, lượng khách đến Huế cũng có phần giảm sút so với cùng kỳ năm 2002, nhưng vẫn ở mức 637.708 782 người, nhiều gấp ba lần lượng khách đến Huế trong cả năm 1993. Tính chung từ năm 1991 đến nay, số khách du lịch đến Huế tăng với nhịp độ 63%/năm đối với khách du lịch quốc tế và 21%/năm đối với khách du lịch nội địa. Doanh thu từ khách du lịch tăng bình quân 65%/năm, tạo nguồn thu đáng kể trong tổng GDP của Tỉnh, trong 10 năm 1993-2003 thu được 198,685 tỷ đồng

Ngoài các hình thức thu hút khách tham quan bằng tuyên truyền qua sách báo, biểu diễn âm nhạc, Trung tâm còn thực hiện phương án mở cửa Đại nội 2 lần/tháng vào các ngày 1 và 15 (ÂL) với các chương trình ẩm thực, ca nhạc truyền thống... phục vụ du khách. Nhà hát Hoàng gia Duyệt Thị Đường được tu bổ, tôn tạo thích nghi và tái sử dụng thành điểm tham quan cho khách du lịch, góp phần làm phong phú thêm nội dung tham quan.

Các giá trị Di sản Văn hoá môi trường cảnh quan đô thị và thiên nhiên gắn liền với di tích cũng là một mục tiêu cần phải đạt tới. Hệ thống hạ tầng của khu vực Đại Nội bao gồm hệ thống cấp thoát nước và hệ thống chiếu sáng đã được tập trung đầu tư khôi phục. Xa hơn nữa, các di tích khác trong khu vực Kinh thành và các lăng tẩm cũng được chú trọng tôn tạo sân vườn, đẩy lùi không gian hoang phế, 35 ha thông đã được trồng tại các di tích, 10 sân chầu được trang trí, hàng ngàn các loại cây cảnh và hoa được ươm trồng để làm đẹp cảnh quan di tích.

Tháng 2 năm 1998, sau khi đánh giá những thành quả đạt được trong công cuộc gìn giữ và phát huy Di sản Văn hoá Huế, TS. Richard Engelhardt, Cố vấn của Tổng Giám đốc UNESCO tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương kết luận: “...tình hình bảo tồn di tích ở Huế thực sự rất tốt, nhờ vào những cố gắng không ngừng của Ban Giám đốc và toàn thể CBCNV của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Bộ Văn hoá- Thông tin, UBND Tỉnh Thừa Thiên Huế. Chúng tôi có thể tuyên bố rằng tình trạng cứu nguy khẩn cấp của Quần thể di tích Huế đã qua đi. Khu Di sản Thế giới của Huế đang ở trong tình trạng an toàn và được bảo quản tốt. Chúng tôi có thể bảo đảm với cộng đồng quốc tế rằng, xét trên cơ sở quan tâm liên tục mà tất cả  các di tích lich sử đòi hỏi phải có, Huế sẽ "mãi mãi được giữ gìn”.

Những thành tựu của chặng đường đầu tiên đã tạo tiền đề vững chắc cho giai đoạn tiếp theo- giai đoạn phát triển bề vững. Mục tiêu của giai đoạn này là: Tập trung tu bổ chuẩn mực một số di tích chọn lọc trọng điểm (chùa Linh Mụ, Kinh Thành, các lăng tẩm...); thúc đẩy công tác nghiên cứu khoa học; nâng cao nghệ thuật cung đình; tôn tạo cảnh quan; phát huy giá trị trong du lịch và dịch vụ.vv..

Điều đó cũng có nghĩa là, chấm dứt giai đoạn cứu nguy khẩn cấp đối với di tích Huế không đồng nghĩa với việc kết thúc mọi nỗ lực bảo tồn, mà chính là sự mở đầu của một giai đoạn mới với những thách thức mới, đòi hỏi sự nghiệp bảo tồn Di sản Huế phải được thực hiện tốt hơn, tích cực hơn, đáp ứng được những tiêu chuẩn cao nhất về bảo tồn để di tích Huế vừa giữ được tính nguyên gốc, vừa được đem lại sinh khí mới để hoà nhập với đời sống của cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển đời sống kinh tế xã hội của địa phương. Đây cũng là nhân tố quan trọng nhất để đảm bảo cho Huế luôn là một vùng đất của sự kết hợp hài hòa giữa quá khứ và hiện tại, là một biểu trưng độc đáo của sức mạnh văn hoá Việt Nam.

P.P

(175/09-03)

Các bài mới
Các bài đã đăng
Ông thanh tra (03/06/2009)