NGUYÊN QUÂN
Lão Đạo vẫn ngồi chò hỏ, kiểu ngồi đặc trưng đôi chân trần dính kết bùn đất trên giường ruộng của nền văn minh lúa nước. Hai khuỷu tay lòi cục, trơ xương, chống tựa lên hai đầu gối cũng lòi cục trơ xương. Bốn khớp linh động tỳ lên nhau, trở thành bất động.
Hành thế vô động của lão chẳng phải chỉ riêng ở chuyện ngồi. Đôi mắt nằm lọt thỏm trong đám da nhăn nhíu nhàu khô cũng đứng phắt, tịnh không một chút luân chuyển.
Trong hốc cây cái xác con ve sầu nâu nhạt trong suốt nhìn thấu đến tận cùng. Đeo bám trên một mảng cây cũng màu nâu nhạt.
Chính thấu thị trong suốt đến trần trụi của một cái xác vỏ bị bỏ lại đã tạo nên sự bất động của lão Đạo. Một mối liên kết vừa buồn cười vừa phi lý giữa thực thể đang sống và xác vỏ không còn hồn phách.
Bầu trời cuối thu, ẩm ươn xám đậm. Chiều đã rơi vào hoàng hôn. Ánh tà dương hắt hiu càng làm khuôn mặt choắt khô, nhăn nheo khắc kỷ của một con người đi qua gần hết nghiệp sống thêm hiu hắt, ở trong cái hốc, xác ve càng sẫm đậm hơn.
Cơn giông muộn của mùa thu, tràn về từ phía núi xa, ầm ì vạch từng luồng chớp sáng trên dãy phố chợ đã vắng teo, không còn lời mặc cả, chẳng âm tầng thương lượng.
Cả khoảng không gian chợ đời vốn đầy ba động, lúc này chỉ còn lão Đạo ngồi chò hỏ bất động bên ngoài và xác vỏ con ve sầu bất động phía trong hốc cây đa.
Thỉnh thoảng vài gã đạp xích lô ì ạch trườn qua, bỏ lại thanh âm cọt kẹt... cọt kẹt đến dại lòng.
Vài người đàn bà bám chặt đôi quang gánh xoãi bước nhanh, bỏ lại tiếng dép lê xoèn xoẹt...
Rồi tất cả sự sống động đều trôi tuột, mất hút dưới cái cổng thành gạch nâu loang lở, dĩ nhiên sự bất động của cái cổng thành từ thời phong kiến được vinh danh di sản thế giới cũng chẳng sống động, dù đã nhuốm biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu của hàng vạn con người từng quần quật xây dựng lên nó. Hàng vạn sức ba động rồi cũng trở thành vô động.
Không một ai rỗi hơi ngoái nhìn thanh âm sự sống của mình ném lại giữa khoảng chợ đời, nơi lão Đạo vẫn ngồi bất động. Xác ve cũng bất động bám ngược trong hốc cây sần sùi gần bị che khuất bởi những lọn rễ chảy từ đám lá rậm rì xuống như râu hát bội của những gã võ quan, những hiền nhân minh triết múa máy quay cuồng trên khoảng sân đình. Mua vui cho đám trẻ con, cho những người đàn ông, đàn bà nông dân tẩy rửa thành tâm đến mấy cũng phảng phất mùi bùn đất.
Bên trong hay bên ngoài chiếc hốc chỉ là một hình thể già nua bất động.
Xác con ve sầu nâu nhạt và trong suốt vô giác, nhưng lão Đạo là một thực thể sống, đang còn sống. Biểu hiện sự sống là hơi thở. Những chiếc lông bạc thếch thò ra từ hai hốc mũi sâu ngòm của lão vẫn phất phơ theo chu kỳ nhất định. Thật chậm, mấy chục giây mới rung một nhịp.
Mấy chục giây một nhịp thở là tiết tấu chuẩn, lão đã khổ luyện ngồi thiền và tạo dáng theo Dịch cân gần hết một đời người.
Lão Đạo vẫn ngồi bất động trong thế chò hỏ, dĩ nhiên chẳng phải kiểu ngồi thiền hay Dịch ngoại nhập. Mọi trực quan của lão lúc này là cái xác ve sầu, nhưng sự suy tưởng sau lớp vỏ não vốn chật ních giáo điều đã bị đẩy tới đỉnh điểm.
Lão đang trầm tư về cái xác nâu nhạt và hoài nghi sự trong suốt lạ thường ấy...
Phải chăng trong cái hữu cơ bị phế thải, có mang thông điệp siêu nhiên tiến trình thoát xác của loài côn trùng siêu hạng ẩn dật, ẩn tàng, ẩn thân trong bóng tối hàng chục năm trời, chỉ chờ đợi thời cơ hóa thân vài ngày tuổi được bay, được ríu rít ca ngâm, được làm tình, truyền giống rồi “chết”.
Hay chỉ đơn thuần là một mẫu vật chất vô hồn còn lại sau lần hoán đổi từ dạng này sang dạng khác bằng định mệnh bất biến của một sinh linh.
Trí não của lão Đạo căng cứng. Những luận giải chủ quan đang dần hình thành một khối vật chất ngầu đục, dạng vỏ bọc nặng nề vá víu đầy khuôn thước, ngữ nghĩa, những phán truyền, răn dạy, những tư tưởng, triết luận từ Đông phương thẩm sâu nội thể, từ phương Tây duy lý giải phẫu tanh bành đã đeo đẳng hàng chục năm dài trong nỗ lực ly khai sự thối rữa nhục thể của lão, và bây giờ đang bao bọc chung quanh sự bất động của lão.
Tất cả mọi thứ gom góp một đời ấy đều cô đặc, ngưng trệ trước cái xác ve.
Nó đang ở đâu sau cú thoát xác ngoạn mục, để bay lượn giữa những vòm mây ngũ sắc, ca hát trên một cõi thiên đường bất diệt vô ưu nào đó...?
Nó cũng đang bị quay tít trong vòng luân hồi nghiệt ngã để mục rã thêm một lần xác, đâu đó dưới lòng đất. Nơi nó mù lòa ẩn thân chờ đợi nhiều năm tháng dài.
Lão Đạo càng lúc càng rơi sâu vào mê trận của thuật ngữ, của nghi vấn, của chân xác của hiện sinh, của hư vô.
Trong trạng thái bị phân lập, tiềm thức lại có cơ hội trổi dậy chơi xỏ lão. Nhiều năm dài lão Đạo cố không nhớ, vì lão quan niệm tơ tưởng tiềm thức là thứ hàng hóa xa xỉ phải mua bằng thời gian sống.
Tiềm thức hiện thân trong một thằng bé, tấm lưng trần còm cõi với những vết bầm xước, nứt nẻ. Cầm chiếc đuốc lồ ô, quờ quạng đi giữa khoảng vườn đầy bóng tối. Nó đi chầm chậm, từng bước chân trần dẫm lên lớp cỏ ướt sương. Đêm vẫn khô khao tiếng đại bác tầm xa vọng về từ những chóp núi loang lở trơ cháy, quyện lẫn với tiếng ồm oạp của lũ cóc nhái uệnh oạng ễnh ương, biến cải thành phiên khúc tang thương, chết chóc.
Mặc những âm tầng mang giai điệu tang thương chết chóc, thằng bé và chiếc đuốc cứ chầm chậm đi, tỉ mỉ soi rọi từng gốc cây, từng bụi cỏ. Chiếc giỏ tre đeo xệch bên hông nhốt chật cứng lũ ve non. Con vừa chui lên khỏi mặt đất chưa thoát khỏi trạng thái mù lòa, con chưa kịp dấn thân vào hành trình thoát xác, con chưa kịp rung đôi cánh mỏng tang để bay lên...
Trong khoảng vườn đổ đầy bóng tối, thằng bé vẫn đi với chiếc đuốc lồ ô. Trong ký ức mùi bếp lửa, mùi cháy khét của đôi cánh, của tiếng giãy chết và mùi thơm ngầy ngậy da thịt côn trùng được nướng chín, lão đạo rùng mình, phá tan thế ngồi bất động.
Thằng bé và chiếc đuốc lồ ô chập chờn ánh lửa đi từ bắt đầu bóng đêm, đi sâu, đi xuyên qua suy tưởng của lão Đạo. Nó đi qua giống những người đàn bà đôi vai trĩu nặng quang gánh, những gã xích lô ì ạch đạp qua và không bao giờ quay đầu nhìn cái xác ve sót lại trong hốc cây đa.
Lão Đạo vẫn ngồi chò hỏ, bốn khớp hoạt tỳ lên nhau, kiểu ngồi bất động đầy trăn trở đã bị phá tan trong cuộc chiến chống trả thằng bé đột hiện từ quá khứ khiến cơn tê dại từ khớp tay khuỷu chân lan nhanh, lão dần rơi vào trạng thái vô giác, lớp vỏ não bị xuyên thủng, từng nơ ron thần kinh nhũn nát, những sợi lông mũi cũng không còn chuyển động theo chu kỳ.
Lớp võ mù đục bao quanh hình hài già nua còm cõi đang dần chuyển màu đậm hơn, nặng nề hơn.
Lão Đạo không còn nghe âm thanh thường hằng của phố chợ, âm thanh chết chóc vọng về từ những chỏm núi xa, âm thanh oàm oạp thân thuộc của những cánh đồng, khu vườn trĩu hoa trái. Lão không còn nhìn thấy những luồng chớp sáng của cơn giông từ bầu trời dội xuống, không thấy xác ve, hốc cây đa, không thấy những bóng người đã đi lướt qua và không thấy bóng mình đang thu nhỏ dần. Lão không còn ngửi được mùi ủ mục của lá chết, mùi tế bào chết bong lóc khỏi thân thể, mùi khét cháy, mùi ngầy ngậy...
Một hồi chuông nguyện cuối ngày chợt ngân vang, tiếng chuông từ một ngôi chùa, một tháp chuông nhà thờ, một thánh thất nào đó, có thể là từ tất cả hoặc không từ một nơi nào. Nhưng là vọng âm khải huyền báo hiệu cuộc chơi sinh tử của lão Đạo với cái xác ve khô bây giờ mới thật sự bắt đầu.
Mọi giác quan bị phong tỏa, cô lập trong lớp vỏ mù đục hàng chục năm dài, nhân cơ hội thân xác bị băng hoại cũng cựa quậy hồi sinh, chúng bắt đầu ly khai, phá vỡ lớp vỏ mù đực xơ cứng.
Bay.
Vệt nứt dài trên lưng xác ve cố mở lớn mấy chiều không gian thành một vực xoáy sâu thẳm cuốn hút tất cả vào lại bên trong, nghiền nát, chế tác đôi cánh lụa mỏng tang.
Ở đâu đó trên tàng cây lá rậm rì, chợt bật lên một tiếng ve ngân, thứ âm thanh trái mùa lạc lõng cô độc.
Quán café Sửu 13/01/2013
N.Q
(SH294/08-13)