Tạp chí Sông Hương - Số 300 (T.02-14)
Nghiệp của con ngựa
09:11 | 30/01/2014

LÊ QUANG THÁI

Năm Quý Tỵ đã trôi qua, Xuân Giáp Ngọ đã về:
Rắn trườn đã hết năm,/ Ngựa hay đưa Xuân về.(1)

Nghiệp của con ngựa
Ngựa trên Cửu Đỉnh Huế

Chuyện liên quan đến con ngựa thì quá nhiều. Trọng điểm của bài viết thu tóm giảm trừ thành ba tiểu mục: 1. Đặc sắc của loài ngựa; 2. Cái đức của con ngựa; 3. Nghiệp của con ngựa

I. NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC CỦA LOÀI NGỰA

1.1. Loài ngựa

Năm Giáp Ngọ - 2014, con ngựa giữ vai trò hành khiển, quán sát việc thế gian trong một năm. Trong 12 con giáp, ngựa là loài vật đặc dụng và oai phong từ việc nhà cho đến việc nước.

Đồng loại với con ngựa có con lừa, con la. Lừa quen mang kéo nặng, nếu chở nhẹ thì không chịu đi. La là loài lai giống giữa ngựa và lừa. Dân gian nói trông  ngựa hóa lừa. Lừa và la không anh dũng như ngựa vốn đa năng, đa tài. Vì vậy, ngựa được xếp vào loài gia súc, thân cận với con người. Trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn là lục súc, mỗi con có từng cách thức phục vụ đời sống con người. Mỗi loài  làm một việc theo phân định rạch ròi mà tạo hóa đã ban cho. Vật lớn vật nhỏ đều có một ngón nghề tài giỏi riêng biệt.

Vòng quay của đất trời lấy 6 con giáp ấy quán sát việc thế gian từng năm một, cùng với 6 con vật khác là: cọp, thỏ, rồng, rắn, khỉ, chuột.

Đủ 12 vòng quay/ năm tạo thành một giáp. Dựa vào 10 thiên can và 12 địa chi để định năm, định tháng, định ngày, định giờ phân minh. Người xưa dựa vào ngày tháng năm sinh của từng người để đoán vận mệnh bằng lá số tử vi. Đúng/ sai còn tùy theo trí tuệ và đức hạnh của thầy tướng số và người được đoán giải. Đã có lời kết rất minh triết Việt: Tướng bất cập số, số bất cập đức hoặc phúc chủ lộc thầy.

Khoa tử vi ở Nhật Bản tiến bộ vì có nhiều người hành nghề gần xem như nhà nghiên cứu khoa học, có tri thức đáp ứng nhu cầu giải mã một phần về văn hóa tâm linh cho con người. Năm 1968 đang trên đà biến khoa tử vi thành một ngành ngọn của khoa học đến mức độ 90%, thiên hạ không còn xem khoa tử vi là dị đoan, mê tín nữa. Cũng như thế, khởi thủy khoa châm cứu, khoa thôi miên bị xem là mê tín thì non hai trăm năm trở lại đây được sửa sai và khẳng định châm cứu là khoa học, chớ không còn bị lên án là phù thủy. Có oái ăm không! Ánh sáng của khoa học đã minh oan, mở trói những oan khiên cho người hành nghề châm cứu. Nhà bác học Albert Einstein đã từng viết: Khoa học không tôn giáo thì hời hợt; tôn giáo không khoa học là mù quáng.(2)

1.2. Đặc điểm của ngựa

Từ con ngựa hoang, cao bồi hoặc nài ngựa sống bằng nghề nuôi ngựa đã thuần hóa, biến ngựa hoang, ngựa chướng thành gia súc gồm 6 loài: trâu, chó, ngựa, dê, gà, lợn mà ngựa là oai phong hơn cả. Thời cổ đại Bá Lý Hề nuôi ngựa giỏi mà làm đến chức Tể tướng. Trịnh Kiểm từ một lính cắt cỏ ngựa, nuôi ngựa mà trở thành Thái sư dưới thời Lê Trung Hưng.

Mã (馬) là ngựa, âm Bắc Kinh là Mã. Đây là ngôn ngữ hình tượng. Các chữ trong Giáp cốt văn và kim văn đều giống hình dạng một con ngựa sống động, mặt và bờm dài làm nổi bật đặc điểm của loài ngựa.(3)

Thân mạng con ngựa oai phong và đa năng, giàu ý nghĩa nổi trội vì ngựa chạy nhanh; ngựa chuyên chở hàng hóa nặng đi đường dài, ngựa kéo xe song mã, tứ mã; ngựa đưa thư; ngựa chiến đấu... Làm trai chết ở sa trường, lấy “da ngựa bọc thây”(4) là vinh danh, vinh dự; còn chết trên giường phụ nữ là nhục nhã. Ngày nay cho dù văn minh tới mấy tầng mây, ngựa vẫn được dùng để dàn chào, đón rước quốc khách có tầm cỡ thăm viếng lẫn nhau giữa các nước trên thế giới.

Ngựa oai phong chỉ vì các đặc điểm sau đây: ngựa có mắt đếm (ở khuỷu chân trước), không có mật, và một móng. Có ngựa tốt và cũng có ngựa xấu. Sách xem tướng ngựa gọi là “Tướng mã kinh”. Theo sách này thì “Ngựa tốt cần được đầu to, vuông; mắt sáng; xương sống cứng; bụng thon; bốn chân dài; quầng mắt cao; mũi to; đầu mũi có chữ vương (王); trong mồm đỏ; ống xương chân tròn, dài; tai gần nhau mà vểnh về đằng trước, vai nhỏ mà dày”.(5)

Ngựa tốt phải hội đủ 12 đặc tính về hình dáng thể hiện cái thần thái vừa kể ở bên trên. Có 3 hạng người, có 3 hạng vật. Người xưa quen gọi ngựa hay, ngựa tốt là tuấn mã như ngựa Xích Thố, Bạch Mã, Kim Mã. Thật thanh thoát khi dùng danh từ “mã thông” (馬通) để gọi nước thải theo đường tiểu tiện của loài ngựa. Người có cái đầu óc “mã thượng” đã phiên dịch cổ văn, cổ sử phải chịu khổ công tra đi, xét lại, thậm chí có khi phải sẵn sàng thâm nhập vào giới bình dân để tìm hiểu, học hỏi theo tinh thần “bất sỉ hạ vấn”. Đúng như cổ nhân dạy bảo: Lời nói là “tắc”, là phép tắc để thuyết phục người nghe, người đọc.

Sau cùng phải kể đến một đặc điểm khác của loài ngựa là ngựa có mặt dài, khi đi hoặc khi chạy, khi phi thì chuyên chú nhìn thẳng về phía trước. Tác phẩm Lục súc tranh công có câu: “Đố mặt ai dài bằng mặt ngựa”.(Viết mặt dày như trên mạng internet là sai).

II. CÁI ĐỨC CỦA CON NGỰA

2.1. Lòng trung thành của ngựa

Ngựa là một sinh vật, một động vật được thuần hóa, được huấn luyện để phục vụ dân sinh trong vận chuyển, chiến đấu, lễ nghi và cả trong nghệ thuật trình diễn như đua ngựa, xiếc ngựa, đóng phim... Công năng phục vụ của loài ngựa cốt để phụng sự dân sinh hạnh phúc. Người xưa gọi đó là cái Đức của con ngựa; người Âu Châu gọi là “Vertu”(6) mà người đầu tiên là Platon đã viết trong tác phẩm La République (chế độ Cộng hòa).

Trung thành với chủ là phẩm chất cao quý nhất của loài ngựa. Dân gian thường nói: “Ở cho đức mặc sức mà ăn” hoặc “Người trồng cây hạnh mà chơi/ Ta trồng cây đức để đời cho mai sau”.

Trong lịch sử chống kẻ thù xâm lược, đã có những con ngựa chiến chở thân xác của chủ tướng đã chết trên mình ngựa hoặc bị trọng thương về nơi an toàn để rồi cùng sống chết theo với vị tướng quân. Vì vậy mà ngựa được chôn cất hóa thần để đứng chầu bên lăng mộ của tướng quân mà chính ngựa đã tận trung theo phò suốt một đời người, một đời ngựa chiến.

Quốc văn giáo khoa thư do các tác giả Đỗ Thận, Trần Trọng Kim... biên soạn đã kể lại chuyện một người Mường tải hàng từ miền cao xuôi về chợ bán, mải mê chuyện giao hàng cho khách mua đến nỗi quên lấy tiền. Phóc lên yên ngựa, giật cương nhưng ngựa nhất thiết không chịu đi. Ngạc nhiên! Ngựa sao nổi chướng kỳ vậy. Người Mường nhớ lại, bèn xuống ngựa tìm người giao hàng để lấy tiền. Đó là phẩm tính trung thành của loài ngựa đã sống có nghĩa với chủ nuôi.

2.2. Ý nghĩa biểu trưng của ngựa

Ngồi trên mình ngựa được gọi bằng thuật ngữ “mã thượng”, lên ngựa là “thượng mã”. Thành ngữ “Mã thượng đắc thiên hạ” có nghĩa là ngồi trên mình ngựa mà làm nên việc, không những việc binh mà kể cả việc bán buôn. Thương trường ngày nay còn là chiến trường. Làm nên việc lớn, người xưa diễn tả lý tưởng ấy thành tứ tự thành ngữ “Mã đáo thành công”.

Vì ngựa có nghĩa với chủ cho nên được người đời tạc tượng ngựa bằng gỗ quý, bằng đá để thờ hoặc đứng chầu bầu ở lăng tẩm, đền đài, cung điện. Có tranh ngựa để tặng khách, tặng bạn, ngầm ý chúc phúc, chúc tụng thành công trong đường kinh doanh và trong binh nghiệp làm rạng rỡ non sông.

Chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông, toàn dân hẳn không quên hình ảnh ngựa đá được chạm khắc ở khu lăng mộ của 2 vua: Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông ở Chiêu Lăng thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay.

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu. (7)

Dịch:

Xã tắc hai lần phiền ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

Kim âu là cái bình vàng. Người xưa khéo ví von nước nhà như một cái bình vàng. Kim âu còn được đặt tên cho một ngọn núi ở tỉnh Thanh Hóa vì nghĩa bóng của danh từ này đã nói rõ “đất đai của nước nhà được tròn vẹn”. Có tác giả xưa lấy bút hiệu Trung Hiếu Thần Tiên đã giải thích ý nghĩa của danh từ “kim âu” bằng hai câu thơ: Nghìn năm giữ lấy kim âu/ Có gian truân mới phong lưu lâu ngày. Nghĩa bóng của Kim âu là đất nước, là tổ quốc. Không tìm hiểu ý nghĩa của từ cổ này thì không thể nào hiểu và thấm ý vị của chất thơ của bậc đế vương nhân hậu. Bằng không thì chỉ hiểu, chỉ phân tích hai câu thơ của câu đối một cách mơ màng, theo lối diễn nôm mà thôi. Thì ra trong thơ có nhạc, có họa, có điển được diễn xuất bằng thủ pháp ý tại ngôn ngoại của một công án của vua Trần Nhân Tông.

III. NGHIỆP CỦA CON NGỰA

3.1. Nghiệp

Mỗi hành vi của con người có tác ý đều tạo ra nghiệp (業). Gốc tích của từ “nghiệp” được Từ điển có tên gọi “Tìm về cội nguồn chữ Hán” của Lý Lạc Nghi ở trang 454, sách xuất bản năm 1997 như hình vẽ dưới đây:


Chữ nghiệp (業) vốn chỉ mảnh gỗ bắc ngang qua giá treo nhạc khí thời xưa, khắc thành hình răng cưa, dùng để treo chuông, khánh... Kinh Thi: Lập nghiệp (giá treo), lập dây treo chuông, cài ngà, cắm lông. Sau cũng chỉ ván bảo vệ sách và ván nề tường. Nghĩa mở rộng thành “học hành”, “nghiệp vụ”, “chức nghiệp”, “sản nghiệp”, “cơ nghiệp” v.v.(8) Vì vậy mà dân gian nói: “Sinh nghề, tử nghiệp”. Ai ai cũng phải học nghề để tự thành nghề nuôi thân và góp phần giúp ích cho xã hội. Ca dao có câu: Con người là kẻ học nghề/ Mà thầy là nỗi ê chề đớn đau. Phải khổ luyện mới thành nghề, có tay nghề cao, vì: Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.

3.2. Nghiệp theo Phật giáo

Nhà Phật dịch từ karma ra tiếng Việt là nghiệp (業) có nghĩa là hành vi có tác ý, có chủ đích.

Nói rõ hơn, người ta thường nói “nghiệp chướng nặng nợ”. “Nghiệp” là cái nhân nảy sinh ra “quả”. Tam nghiệp tội là khẩu nghiệp, thân nghiệp và ý nghiệp. Theo từ điển Hán Việt của Thiều Chửu thì khẩu nghiệp do nhân ác bởi miệng gây ra. Thân nghiệp, nhân ác bởi thân làm ra; Ý nghiệp bởi ý làm ra. Còn túc nghiệp là nghiệp ác do kiếp trước đã làm, khiến cho kiếp này phải chịu khổ. Làm điều thiện gọi là thiện nghiệp.(9)

Tiểu phẩm “Phú dạy con” của Mạc Đỉnh Chi gồm 205 câu, mỗi câu 4 chữ được xem như Kinh hồi hướng nhân quả. Đoạn cuối bài phú vừa là kinh này đã viết:

Nhiều con nhiều vợ,
Phiền não buộc ta;
Tàn cả ngựa cao,
Ta xem bằng giặc.

Anh em nội ngoại,
Ân ái mẹ cha;
Đế lễ xuất gia,

Báo ơn mới được.
Hễ đường bạo ngược,
Sát, đạo, tà dâm;
Tội nặng muôn năm,

Phải chừa phải bớt,
Đội ơn trời đất,

Cha mẹ sinh thành
Cho gấp chớ chầy
Tu hành làm
Bụt.(10)
            (Đào Duy Anh - Huệ Chi dịch)

Ngựa đã đi vào kinh sách Phật giáo rõ nét nhất ngựa Kiền Trắc. Kiền còn đọc là Càn (乾) là cái tượng tôn nhất như Trời, như Vua. Trắc (側) là nghiêng mình. Đồng có chữ 測 cũng đọc là “trắc” có nghĩa “đo sâu cạn”, liệu lường. Hình ảnh con ngựa Kiền Trắc phi nhanh nước đại vượt dòng sông Anoma xuất gia tìm đạo giải thoát cứu độ loài người và chúng sanh là một bức tranh tuyệt đẹp mang sắc màu thiêng liêng đầy vẻ nhiệm mầu.

Bình chọn về tranh vẽ xưa, Lê Quý Đôn đã viết trong pho sách Vân đài loại ngữ ở quyển thứ 9 có tựa đề Phẩm vật loại, mã số 47 như sau:

“Sách Họa Luận nói: “Phép chọn tranh vẽ, quí nhất là tranh đạo Thích, rồi đến nhân vật, sơn thủy, hoa cỏ, sau hết là tranh ngựa: Phép xem tranh, nên xem khí vận trước tiên, rồi xem bút ý, xem cốt pháp, vị trí, sau hết mới xem hình dạng có giống không. Đó là phép chính về xem tranh vẽ”.(11)

Đối với những người nghiên cứu Phật học, nghệ thuật văn hóa Phật giáo thì tranh “Ngựa Kiền Trắc” vượt dòng Anoma là bức tranh tuyệt thế. Trong kiến trúc chùa cổ ở làng quê hoặc đô thị, bức tranh vô giá này được chạm khắc, khảm mẻ sành ở mặt tiền trên vách tường của Tiền đường là vì lẽ ấy. Tôn vinh và sùng thượng tranh ngựa đều có cơ sở: có lý rồi mới có sự. Tìm cho ra căn cơ của sự lý này thật là một điều lý thú để thuyết minh cho du khách đến thăm chùa Huế, chùa Việt Nam. Thật lòng mà nói, chúng ta đang thiếu những hướng dẫn viên du lịch chịu khó đi vào chuyên sâu để trả lời những thắc mắc, vấn nạn của du khách.

*

Nói về đề tài “NGHIỆP CỦA LOÀI NGỰA” thì khôn cùng. Đầu xuân Giáp Ngọ, xin tuyển chọn một số nét tiêu biểu liên quan đến con ngựa, đến loài ngựa, đến biểu trưng của hình tượng ngựa trong cổ sử và Phật sử để ôn cố tri tân và tìm thấy sáng lên hồn minh triết Việt. Dòng giống Tiên Rồng bao giờ cũng lấy sở học để giáo hóa và canh tân đất nước theo đà tiến bộ và văn minh của thời đại:

Học như nghịch thủy hành chu bất tiến tắc thoái,
Tâm tựa bình nguyên tẩu mã dị phóng nan thâu.(12)

Dịch là:

Học như chèo thuyền nước ngược, không tiến thì thối;
Tâm tựa ngựa chạy đồng bằng, dễ phóng khó dừng.


Thiết nghĩ, đó là chìa khóa vàng để sớm chấn hưng và bài trừ các tệ đoan, tệ nạn xã hội, tiêu cực giáo dục mà nhanh chóng vượt qua mọi thách thức trong thời đại mới để Tổ quốc Việt Nam ngày mỗi rạng rỡ trên thế giới.

Huế, ngày 10/01/2014
L.Q.T
(SH300/02-14)


--------------------------
1. u đối, hoành phi chữ Hán tinh tuyển, Cống Sĩ, Nxb. Phương Đông, TP. H.C.M, 2006, tr.137.

Tiểu

long

tùy

tuế

khứ

/

Tuấn

bạn

xuân

Lai

 

駿

2. Conceptions Scientifiques, Morales Et Sociales, Nxb. Flamarion, Paris, 1961, tr.25 (Nhận định về Khoa học, Đạo đức và Xã hội) La science sans religion est boiteuse, la religion sans la science est aveugle. Einstein (1879-1955) gốc Do Thái, giải Nobel Vật lý năm 1921. Xem “Từ điển danh nhân thế giới” (Tái bản lần 3), Trịnh Chuyết, Nxb. Xuân Trinh, Sài Gòn, 1970, tr.160.

3. Tìm về cội nguồn chữ Hán, Lý Lạc Nghi, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1997, tr.407.

4. Lời của Mã Viện dạy quân sĩ

5. Vân đài loại ngữ, Lê Quí Đôn, Phạm Vũ, Lê Hiền dịch và chú giải, Nxb. Miền Nam, Sài Gòn, 1973, tr.510, 521.

6. Vertu = đức, đức hạnh, ơn huệ.
Đức cầm = loài chim có đức như con gà, con phượng.
Đức hạnh = đạo đức và phẩm hạnh
Tứ đức: công, dung, ngôn, hạnh được người Pháp dịch là: le travail, la décense, le parler, la conduite. Ngựa, voi... là động vật có đức, rất trung thành với chủ.

7. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Ngô Sĩ Liên, Viện Sử học dịch, Nxb. Thông tin, Hà Nội, 2004, tr.520 - 523,
Ngày 17 tháng 3 năm Mậu Tý, 1288, đem các tướng của giặc [Nguyên] bị bắt là Tích Lê Ngọc Cơ Ngọc và Nguyên soái Ô Mã Nhi; Tham chính Sầm Đoạn, Phàn Tiếp, Điền Nguyên soái và các Vạn hộ, Thiên hộ làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng. Trước đấy, quân Nguyên đã đào Chiêu Lăng, muốn phá đi nhưng không xâm phạm đến quan tài; đến khi giặc thua, chân ngựa đá ở lăng đều bị lấm bùn, đó là thần linh giúp ngầm vậy. Vua Trần Nhân Tông làm lễ yết có hai câu thơ đã dẫn. Có bản dịch khác: “Xã tắc hai phen bon ngựa đá/ Sơn hà muôn thuở rạng kim âu”.

8. Tìm về cội nguồn chữ Hán, Lý Lạc Nghi, sđd, tr.454.

9. n Việt Tự Điển, Thiều Chửu, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2009, tr.466.

10. Đạo Phật Việt Nam, Thích Đức Nghiệp, Nxb. Thành hội Phật giáo TP. H.C.M, 1995, tr.541. Mạc Đỉnh Chi (1280 - 1350) người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Năm 24 tuổi đỗ Trạng Nguyên. Phú viết lối 4 chữ rất khó làm. Lời bình dị mà rất thâm thúy. Các thiền sư đã gọi bài “Phú dạy con” này là Kinh. Trung Quốc đã tôn phong là Lưỡng Quốc Trạng Nguyên vì tài ứng đối nhanh trí và đầy quả cảm. Người ông có tướng mạo xấu xí nhưng trí tuệ tuyệt vời. Mở đầu bài Phú viết:

Nhất thiết thăng trầm
Mệnh sinh ngũ dục
Nghiệp nặng nhiều ngày
Sinh loài ngữ trược
Vì lòng vì dạ.
Thương cái thương con;
Chịu khó đêm ngày,
Cưu mang đùm bọc.

11. Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn, Sđd, tr.431.

12. 5000 Hoành phi câu đối Hán Nôm, Trần Lê Sáng chủ biên, sđd, tr.541

退








 

Các bài mới
Nồi bánh tét (30/01/2014)
Các bài đã đăng
Xuân kinh (29/01/2014)