Tạp chí Sông Hương - Số 376 (T.06-20)
Con rồng cháu tiên: huyền thoại Việt - Mường - Thái
08:48 | 14/08/2020

NGUYỄN MẠNH TIẾN    

Sự tương hợp của những môtip truyện họ Hồng Bàng hay con rồng cháu tiên [viết tắt: rồng tiên] được chuẩn hóa như huyền thoại quốc gia bắt đầu từ trong truyền thống Ngoại kỷ của Toàn thư người Việt với vũ trụ luận Mường, Thái là một chủ đề thú vị.

Con rồng cháu tiên: huyền thoại Việt - Mường - Thái
Ảnh: internet

Nó trình ra được khuôn mặt chung trong niềm tin Việt, Mường, Thái vốn là những tập đoàn tộc người quan trọng nhất của Đại Việt thế kỷ XV. Đồng thời, nó củng cố thêm vững chắc cho việc diễn giải huyền thoại quốc gia không đơn giản chỉ là hoạt động vay mượn từ cội nguồn văn bản và truyền thống Trung Hoa mà còn mang dấu ấn Đông Nam Á bản địa khá sâu đậm.

Người Mường và huyền thoại rồng tiên1

Nổi tiếng nhất, và cũng được biết đến nhiều hơn cả trong số các nghiên cứu này, trước hết, phải là phiên bản truyện kể được cung cấp bởi Cuisinier (1946) về nguồn gốc người Mường vốn là hậu duệ của nàng công chúa Hươu sao (cerf étoilé)/ Ngu Cơ với chàng hoàng tử Cá chép/Lương Wong/Lương Vương con vua Yịt (Việt). Cuộc hôn phối huyền thoại của mẹ Hươu và bố Cá, giống ở cạn/núi và giống ở thấp/nước, có kết quả là 100 người con. Khác với huyền thoại Việt đặt trọng tâm vào tính gia trưởng phụ hệ như là hệ quả của tư duy lệ Hán với toàn là con trai, huyền thoại Mường cân đối hơn, chia đều 50 trai và 50 gái. Giống như cuộc đời này, sau phút đầu tình yêu ngọt ngào, hôn nhân chứa đựng nhiều phiền toái, nhất là lại đẻ lắm, tới trăm đứa con, huyền thoại Mường ghi nhận, bất hòa đã nổ ra, nàng Hươu sao và chàng Cá thường xuyên cãi vã, cuối cùng, đường ai nấy đi. Nàng Hươu sao dẫn 50 con lên miền núi đồi khai sinh dòng vua áo đen, còn chàng Cá đem 50 con về miền cửa sông khai sinh dòng vua áo vàng. Dân Mường thờ nàng Hươu sao như tổ mẫu. Không quên tổ tiên của mình, người Mường trong lễ tang tộc người, cờ của ông mo - biểu tượng linh thiêng, vì thế có hình hươu sao và cá chép (Trần Từ 1996).

Ý tưởng hạt nhân của truyện kể - sự phân ly của 50 người con lên núi theo mẹ, và 50 người con xuống biển theo cha - được tiếp tục xác nhận với nhiều biến thể trong folklore Mường, đặc biệt đậm đặc trong bản sử thi quan trọng của tộc người, phần Đẻ đất đẻ nước. Nhân vật mấu chốt của huyền thoại, vua Vua Yit Yang/ Dịt Dàng/ Việt Vương được biết đến trong tư cách vua người Việt, làm chủ xứ Kinh kỳ kẻ chợ là một trong những người con nổi tiếng của tổ tiên Mường. Người Mường và người miền núi nói chung, về mặt dân tộc học, có một danh xưng khá độc đáo cho Việt là người Chợ, tiếng Việt được gọi là tiếng Chợ. Bản sử thi Đẻ đất đẻ nước ở Hòa Bình cho biết, Dịt Dàng là người con út trong 18 người con của Lang Đá Cần, bản kể ở Sơn La thì cho biết Dịt Dàng cũng là con út, nhưng lại là của cặp vợ chồng khởi nguyên Mường có 23 người con, còn theo bản kể Thanh Hóa thì vị vua Việt được cử về xuôi làm vua Kinh kỳ kẻ chợ lại là con của chim Tùng - chim Tót (Grigoreva 2015: 15). Như thế, rõ ràng ý tưởng về sự phân đôi Việt và Mường, một tập đoàn ở núi, hậu duệ của tiên/hươu/chim trở thành tổ tiên Mường hiện nay, tập đoàn còn lại, hậu duệ của rồng/cá ở đồng bằng sông biển thành người Việt hay Kinh (ở các kinh thành, kinh kỳ kẻ chợ bán buôn như cách người Mường gọi tên) là một ý tưởng phổ biến của các cộng đồng Mường nhiều nơi khác nhau, cũng như của người Việt được thể hiện trong huyền thoại được chuẩn định trong ngoại kỷ Toàn thư. Đáng chú ý, về một tai nạn của Dịt Dàng, khi ra suối tắm tay rụng thành rắn thần Khú Lụi (Phan Ngọc 2000: 68). Khú là loài rắn lớn huyền thoại phổ biến trong các truyện kể Mường, mà như Trần Từ (1996) cho biết, là vua cõi nước, luôn có mào đỏ trên đầu, đấy là chỉ dấu tương thích với rồng của Việt. Như thế, Dịt Dàng/ Việt Vương chính là loài rắn/rồng huyền thoại, tổ tiên Mường và Việt (như chính hiện thân của rồng Lạc Long Quân).

Một sự đọc sâu vào bản sử thi quan trọng này của người Mường, đúng như Nina Grigoreva nhận thấy, không cần phải viện dẫn đến các văn bản Trung Hoa xa xôi để nhìn thấy bản chất truyện kể được lưu hành trong huyền thoại Việt ở Ngoại kỷ Toàn thư. Ý tưởng về tổ tiên sinh từ trứng, trứng nở ra người, cũng được tìm thấy trong Đẻ đất đẻ nước. Bản kể ở Hòa Bình cho biết, trứng nở ra loài người Mường là của chim Ây - Cái Ứa, còn bản kể ở Thanh Hóa thì cho biết, trứng ấy lại là thành quả của chim Tùng - chim Tót (Grigoreva 2015: 12). Sự phong phú của sử thi Mường thể hiện không chỉ ở Đẻ đất đẻ nước mà còn nằm trong cả hệ thống Mo lên trời. Chúng ta còn biết đến những phiên bản khác về việc đẻ ra trứng như chim Ốn Tôn, hay truyện kể về mụ Dạ Dần, sinh ra từ cây si thần thoại. Dạ Dần chính là người đẻ ra trứng, trứng nở ra hai chàng khỏe mạnh, khổng lồ Bướm Bờ, Bướm Bạc là tổ tiên dân Mường (Phan Ngọc 2000: 67). Điều đáng chú ý ở đây là tính tổng hợp nguồn cội đa tộc người của truyện kể, nảy sinh từ chính nội dung huyền thoại, như là một hệ quả chung mà các tộc người buộc phải sáng tạo ra để lý giải cho môi trường đa dạng các tộc người cùng cộng cư kề cận, thậm chí cư trú gài răng lược với nhau. Vì thế, chúng ta nhận thấy, trong huyền thoại Mường có việc lí giải nguồn gốc tộc người không chỉ cho chính Mường mà còn cho các tộc khác: “Nghe xôn xao tiếng Lào, nghe lao nhao tiếng Kinh, nghe ình ình tiếng Mọn...” (Phan Ngọc 2000: 68); một bản khác ở Thanh Hóa kể: “Nghe ồn ào tiếng Lào, nghe lao xao tiếng Kinh, nghe ình ình tiếng Mọn, nghe nhốn nháo tiếng Siên quan. Nghe xôn xao tiếng Thái, nghe hối hả tiếng Mán, nghe nháo nhác tiếng Mẹo...” (Phan Ngọc 2000: 70) (Đẻ đất Đẻ nước 1975: 47-48)2. Rõ ràng huyền thoại này về mặt hình thức dẫn chiếu đến hai nguồn cội sinh thành truyện kể: một là, nó có thể được kể từ “quá khứ xa xôi”, với các thành tố chính Việt-Mường, sau đó, gia nhập các yếu tố mới. Hoặc, trái lại, nó ra đời khá muộn, bởi sự xuất hiện tiếng Mán, tiếng Mẹo hay tiếng Siên quan như trong bản kể ở Thanh Hóa, cho thấy, các chi tiết này là sáng tạo muộn, chỉ có tuổi đời độ một đến một thế kỷ rưỡi, vì người Mán (Dao), người Mèo/Mẹo (H’mông) thâm nhập vào Thanh Hóa chỉ khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX (Robequain 1929; Robert 1941). Dù thế, như lưu ý gạch chân ở trên, về mặt hình thức, những “tín hiệu mới” của truyện kể tộc người không nhất thiết đồng nhất với tính thời gian xác thực: nó có thể có từ quá khứ xa xôi của huyền thoại Mường. Truyền thống của Đẻ đất đẻ nước hay Mo lên trời thuộc về khoảng thời gian xa xưa nào đó thì, thực chất, rất khó mà đưa đến kết luận. Tuy thế, với tư cách là những người “bản địa”, người Mường (đúng hơn là Việt-Mường), mà tập trung nhất là ở cả hai khu vực Hòa Bình và Thanh Hóa, thực sự là những cư dân có quá khứ cư trú lâu đời. Nếu chúng ta không quá khắt khe đối với khái niệm truyền thống, một khái niệm đầy tranh cãi và thực chất là luôn biến động, thì họ chính là những cư dân có mặt rất sớm, ít nhất là từ thời đại đồ đồng mà biểu tượng trống đồng chính là di sản chung chỉ dấu vào quá khứ sinh tồn lâu đời của tổ tiên Mường trên vùng trung du Bắc và Bắc Trung bộ nước Việt Nam. Những địa danh huyền thoại gắn với sử thi Đẻ đất đẻ nước ở trên các vùng đất thuộc tộc người mà sử thi ấy lưu hành, ngày nay có thể được xác định không quá khó khăn trên các vùng đất Mường khác nhau. Đồng thời, ở miền núi Việt Nam, không quá ngạc nhiên khi các yếu tố mới liên tục gia nhập vào một cấu trúc truyện kể, nghi lễ văn hóa - tôn giáo - huyền thoại tộc người vốn có tuổi đời xa xưa hơn những yếu tố mới ấy rất nhiều3. Truyền thống truyền khẩu văn chương tộc người cho phép liên tục tái hiện sự sống động của huyền thoại cổ xưa dưới những hình thức mới, mà về hình thức, có thể mang tính thời sự của các sự kiện sống động, gần gũi với sinh hoạt thường ngày tộc người. Huyền thoại luôn là hiện tại.

Người Thái và huyền thoại rồng tiên

Lịch sử diễn giải về sự tương hợp huyền thoại Việt với Mường là lấn át so với Thái. Rất ít nghiên cứu đã chỉ ra sự tương thích của vũ trụ luận Thái với truyện họ Hồng Bàng. Mặc dù thế, điều ấy không có nghĩa là huyền thoại về nguồn gốc của Thái xa lạ với các kinh nghiệm truyện rồng tiên. Trái lại, huyền thoại Thái chứa đựng một phiên bản khác về truyện kể cặp tổ tiên khởi nguyên rồng/rắn - tiên/chim.

Cầm Trọng là học giả đã nhận ra, và nỗ lực chứng minh bằng các giả thuyết để khớp nối tính chính danh của Thái như là một thành viên khởi nguyên từ/thuộc Hồng Bàng thị truyện. Học giả Thái quan trọng này dường như đã làm một sự tổng hợp ngược với tổ tiên thế kỷ XV, khi cố gắng chứng minh, huyền thoại Thái là tương thích với huyền thoại rồng - tiên của người Việt, mà trong thời hiện đại, đã đồng nhất với quốc gia Việt Nam. Dựa trên các dữ liệu folklore Thái, đúng hơn là Tày - Thái4, Cầm Trọng (1987) đã chỉ ra khởi nguyên thân tộc Thái là sự kết hợp của chim én - loài chim biểu tượng của linh hồn đẳm pú (đàn ông, phía cha) và thuồng luồng, loài rắn lớn sống dưới nước và có thể lên cạn, biểu tượng của đẳm nái (đàn bà, phía mẹ). Cặp biểu tượng chim/nam - rắn/nữ là cặp biểu tượng phôi thai gắn với tín ngưỡng linh hồn Thái. Từ đó, dần nảy sinh các cộng đồng thân tộc khác (Cầm Trọng gọi là các cộng đồng totem) của Thái. Đáng chú ý, Cầm Trọng (1987) có một phụ chú mang tính chỉ mục khi nói rõ, thoạt tiên, người ta ngỡ rằng huyền thoại Thái với cặp cha/chim/tiên - mẹ/rắn/thuồng luồng là ngược với huyền thoại Kinh là mẹ/chim/tiên - cha/rồng/rắn (rồng nước cũng là thuồng luồng). Thực ra, Cầm Trọng nhấn mạnh, đây là môtip hoàn toàn thống nhất, vì cơ bản, nguyên lý của nó là biểu tượng của hai thị tộc lưỡng hợp. Khi đã lưỡng hợp thì trai bên rắn lấy gái bên tiên (như Kinh), và có thể diễn ra tiến trình ngược lại (như Thái) (Cầm Trọng 1987: 161-162).

Đến công trình tiếp theo (Cầm Trọng - Phan Hữu Dật 1995), Cầm Trọng dành hẳn một chương (Chương II) để thực hiện ý đồ tổng hợp sự thống nhất văn hóa các tộc Tày - Thái hiện nay là diễn ra từ thời các vua Hùng và Thục An Dương Vương được phản ánh trong thần thoại Lĩnh Nam chích quái. Chỉ mục này, như thế, rõ ràng cố gắng gắn các vấn đề Tày - Thái với vua Hùng, và Thục An Dương Vương, cấp cho các triều đại huyền thoại, bán sử này những ý nghĩa lớn lao, không nằm ngoài ý đồ tổng hợp cho tính chính danh và cao cả của thời đại Hùng Vương như là một nỗ lực lớn trong chủ nghĩa dân tộc của các học giả mác-xít khoảng nửa sau thế kỷ XX. Sự “thống nhất”, mà nói chính xác hơn sự gần gũi của các cư dân Tày - Thái, hay những tộc nói ngôn ngữ Tai-Kadai ở khắp Đông Nam Á (gồm cả nam Trung Hoa) là một vấn đề rộng lớn hơn mà biên giới các vua Hùng huyền thoại chỉ là một thành tố. Điều đáng quan tâm là, trong nghiên cứu của mình, dựa trên giả thuyết về phân ngành Đen - Trắng của người Thái, Cầm Trọng đã chỉ ra được những mảnh vỡ cho thấy, cộng đồng cư dân Tày - Thái ở Việt Nam đã có những kinh nghiệm thần thoại khá tương đồng với thần thoại người Kinh.

Nhóm Thái Đen từ lâu đã coi mình là con cháu nòi Rồng ở nước. Nhóm Thái Trắng thì xem mình như là hậu duệ của Chim ở cạn. Sách chữ Thái miêu tả kỹ về “cõi linh hồn người” là Páo Khuôn ghi rằng “hồn âm vật là loài rồng ở nước”, còn “hồn dương vật là loài chim én”. Người Nùng nhận mình là Người áo đen (Cần Slửa Đăm) - thuộc dòng Đen. Người Tày tự nhận mình là Người áo trắng (Cần Slửa Khao) - thuộc dòng Trắng. Sự phân đôi ngành Tày - Thái ở Đông Nam Á khá phong phú, nhưng chúng ta cần lưu ý đến sự phân chia hai ngành Thái Nước và Thái Cạn (Vân Nam, Trung Quốc). Nước - Cạn ở người Thái chính là Biển - Núi ở người Kinh.

Việc chứng minh tính rộng lớn của quan niệm hôn phối nguồn cội Rồng - Chim ở Tày - Thái, được dẫn giải bởi Cầm Trọng, như ta sẽ thấy, là để dẫn đến một ý đồ quan trọng hơn nữa của ông phía sau, đó chính là: một bộ phận của người Tày - Thái cổ, “từ mấy ngàn năm trước” sẽ là tổ tiên của Việt cổ, tức tổ tiên của Kinh - Mường (Cầm Trọng - Phan Hữu Dật 1995: 35). Cầm Trọng tạo nên sự hậu thuẫn bằng cách dẫn quan niệm của các nghiên cứu ngôn ngữ học với việc phát hiện ra các yếu tố Tày – Thái trong tiếng Việt như quan điểm của Maspero, hay từ ngôn ngữ, Phạm Đức Dương chỉ ra văn hóa lúa nước Việt bén rễ của văn hóa lúa nước Tày - Thái (xem cụ thể: Cầm Trọng - Phan Hữu Dật 1995: 35, và toàn chương II). Và giờ đây, Cầm Trọng trong một công trình viết chung với một nhà dân tộc học Phan Hữu Dật, muốn bồi đắp, minh chứng thêm, cho sự kết nối Việt - Mường như là một thành tố của khối Tày - Thái trong chính huyền thoại khởi nguyên cặp kết hợp thân tộc nguyên cội, thần thoại Rồng - Chim. Điều này, thể hiện dưới ngay chính sơ đồ tổng hợp trước (Cầm Trọng - Phan Hữu Dật 1995: 45).



Sự mở rộng các yếu tố Tày - Thái nằm trong huyền thoại Kinh được Cầm Trọng tiếp tục lấn sang các cấp độ tương đồng của truyện kể dân gian và biến âm ngôn ngữ học. Những gợi ý như từ truyện Thục Phán xây Loa thành, nhận sự trợ giúp của rùa vàng - biến thể khác của cha rồng ở nước, tương tự ở người Thái là rồng ở nước cũng biến thể thành hổ mang (ngu háu), tổ tiên ngành Thái Đen5. Người Thái, theo truyện kể dân gian và văn hóa của họ, cũng đội ơn rùa, nên người Thái Đen Tây Bắc treo hình nộm rùa lên đầu cột gọi là Xau hẹ (cột thiêng). Sự tương đồng ấy là đáng ghi nhận, nhưng dù sao vẫn chưa đủ giữ chân sự thận trọng trong các phân tích, bởi, sự tương đồng của các mảnh đoạn truyện kể các tộc người, nhất là các tộc người gần nhau về mặt văn hóa như Việt - Thái - Mường đều trồng lúa nước là không khó tìm ra điểm tương đồng nếu được tiến hành so sánh. Dù sao đi nữa, thì Cầm Trọng đã giúp chúng ta nhận thấy mấu chốt quan trọng nhất, ở các tộc người Tày - Thái, trong nhiều huyền thoại về nguồn gốc của họ, mà nổi tiếng hơn cả chính là truyện quả bầu, ngoài ra, còn có các lớp kể huyền thoại về tổ tiên khởi nguyên là sự kết hợp của hai dòng họ Rồng/Rắn - Tiên/Chim.

Những phân tích của Cầm Trọng về huyền thoại rồng - chim của người Thái, dù không chỉ rõ nguồn địa lý đính kèm, nhưng đôi khi như chính tên gọi của chuyên khảo viết chung mang tính cẩm nang Văn hóa Thái Việt Nam (Cầm Trọng - Phan Hữu Dật 1995), nghĩa phát ra của nó, trong những trường hợp này nghiễm nhiên đại diện cho tổng thể người Thái ở Việt Nam. Thực chất, với những quan sát dân tộc học bám sát thực địa, người ta chỉ có thể chấp nhận các dữ liệu phân tích của Cầm Trọng tương hợp hơn với diện trường người Thái ở Tây Bắc, điều mà chính Cầm Trọng (1978; 1987) cũng nhận thấy khi trong các chuyên khảo viết riêng của ông, bao giờ tên các chuyên khảo cũng chỉ nguồn cụ thể Thái [ở] Tây Bắc. Cộng đồng Thái ở Việt Nam, khái niệm này có cơ sở để tồn tại nhưng cũng cần được hiểu một cách uyển chuyển. Thái vốn không đơn thuần chỉ là một khối “cộng đồng dân tộc Thái” có tính đơn nhất, xuyên thấu, mà vốn là nhiều cộng đồng văn tự với các truyền thống văn hóa, lịch sử nhiều khác biệt6. Bởi thế, thông qua hệ thống dẫn liệu dân tộc học, các phân tích của Cầm Trọng rõ ràng không mang tính đại diện cho Thanh - Nghệ, nhất là vùng Thái Thanh Hóa - đất sinh thành đoàn quân Lam Sơn năm nào.

Để có thể hiểu được sát thực hơn với các tồn tại của truyền thống địa phương vùng Thái Thanh Hóa, cần có những dẫn liệu cụ thể của vùng đất về sự trôi nổi của huyền thoại rồng - tiên trong tâm thức tộc người nơi đây.

Trong truyền thống của nhóm Thái tự xưng Phủ Tày, hay nhóm Thái bắc Thanh Hóa hoặc Thái sông Mã với truyền thống pha trộn sâu đậm Việt - Mường, đáng chú ý, người ta biết đến trong truyền thống của họ một phiên bản khác của Đẻ đất đẻ nước người Mường đó là Tảy ắm oóc nặm đín, hai cái tên này, hai văn bản thiêng truyền khẩu đều cùng mang ý nghĩa Đẻ đất đẻ nước. Huyền thoại này7, trong thần thoại Thái thấy xuất hiện motif đẻ ra trứng với cặp chim Ốn Tôn khổng lồ. Chim mái mỏ sắt, trống mỏ đồng, sau khi: “Đạp nhau như cơm bữa/ Nhảy nhau như cơm sáng, cơm chiều”, chim mái sinh ra sáu cái trứng. Những quả trứng khởi nguyên này, quen thuộc với motif sinh nở thần kỳ của tư duy thần thoại, được mô tả đẻ ba năm mới ấp, ấp ba năm mới nở. Sáu quả trứng này, hai quả nở trời đất, hai quả nở ra hai con người là ông và bà Chu Cún, hai quả nở ra (vàng hóa) nước và (cây hóa) lửa. Đó là một phần của khởi nguyên trời đất con người. Thần thoại khởi nguyên này, tiếp tục sự sản sinh loài người với cặp đôi anh em loạn luân Tạo Cặp và Nàng Que vốn được biết đến phổ biến ở vùng Thái và Khơ Mú Thanh Hóa8. Đồng thời, một lần nữa các yếu tố thần thoại Mường tái hiện khi Tảy ắm oóc nặm đín tái hiện motif cây si thần, cây vũ trụ và hành động chặt cây vũ trụ vốn rất nổi tiếng trong sử thi Mường. Motif trứng nở loài người, trời đất trong thần thoại Thái Phủ Tày, không thể không làm gợi nhắc đến trứng chim Tùng chim Tót của bản sử thi Mường9. Một truyền thống văn nghệ pha đẫm các yếu tố Thái - Mường là di sản chung của cả Mường và Thái Thanh Hóa. Điều này, là không tồn tại ở cộng đồng Thái Tây Bắc. Chính vì cùng chia sẻ chung những yếu tố văn hóa, người Thái và Mường Thanh Hóa cũng có chung những nhân thần, có tư cách thần bản mường cộng đồng có xuất thân lịch sử. Các nhân vật như Cầm Bá Thước, Hà Văn Mao được thờ ở nhiều bản làng. Và, nổi tiếng hơn cả như một thần bảo hộ chung cộng đồng Thái, Mường và Việt vùng Thanh Hóa không ai khác chính là vua Lê Lợi.

Ở phía nam Thanh Hóa, mật tập trong hai huyện Thường Xuân, Như Xuân, người Tày Dọ, hay còn gọi Thái sông Chu có địa lý cư trú cận kề các vùng người Mường, như Ngọc Lặc và đáng chú ý nhất là huyện Thọ Xuân - nơi khởi phát của ông quan lang mường Lam Lê Lợi năm nào. Người Thái nơi đây tồn tại một hệ thống tín ngưỡng đặc thù tôn thờ cặp cha mẹ chim/tiên - rồng của tộc người. Ở những khúc sông sâu, người Thái thường coi đó là nơi trú ngụ của mẹ Rồng, và nó được hình dung là thông lên các đỉnh núi cao, nơi có cha Chim trú ngụ. Đây chính là những địa điểm người Thái xưa lập đền thờ mẹ nước. Thời xưa, hẳn tồn tại nhiều địa điểm như thế, ngày nay, nổi bật hơn cả người ta có thể tìm thấy ở bản Chiềng, Mường Luộc (xã Xuân Lộc) xuôm náng (nghĩa là buồng nàng) là một vũng nước sâu trên con sông Luộc được giải thích là nơi trú ngụ của mẹ rồng. Nơi này được cho là thông lên một ngọn núi cao thuộc dãy Bù Kha (người địa phương gọi là Pú Ngúa) để thi thoảng mẹ rồng gặp cha chim là loài chim én (Hà Bá Tâm 2018). Ở vùng Như Xuân, thì tìm thấy được nơi thờ thần nước hay thờ mẹ tại nhiều địa điểm trên sông Chàng, nổi bật nhất còn lại là một địa điểm nằm trên khúc nghềnh của Thác Cổng Trời được dân địa phương gọi là Xuân Nàng10. Những dẫn liệu này, và nhiều địa chỉ thờ xuốm náng dọc sông Chàng, sông Chu cho thấy, tín ngưỡng này từng phổ biến trong cộng đồng Thái Dọ phía nam Thanh Hóa.

Tóm lại, dù thiếu hiểu biết về người Thái vùng núi Thanh Hóa, nhưng với những gì đã thu nhận được từ trên thực địa, hoàn toàn có cơ sở xác tín về sự tồn tại chắc chắn lớp kể huyền thoại về tổ tiên khởi nguyên là sự kết hợp của hai dòng họ Rồng/Rắn - Tiên/Chim ở cộng đồng Thái miền núi Thanh Hóa.

N.M.T
(TCSH376/06-2020)


--------------------------
*. Tiểu luận này trích yếu từ công trình sắp xuất bản của tác giả.  

1. Lịch sử vấn đề so sánh để nhận thấy sự tương đồng của thần thoại Việt - Mường, về nguồn gốc, khá dài  dòng. Đáng kể hơn cả, như là tư liệu chính mà nghiên cứu này kế thừa để tiến hành các phân tích, sơ bộ có thể kể ra: Tư liệu Đông Dương, chú ý nhất, phải kể đến Cuisinier (1946), với truyện kể về Ngu Cơ và Lương Vương; sau 1945, cộng đồng các học giả miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa, đáng chú ý với các nghiên cứu của Trần Quốc Vượng - Nguyễn Dương Bình (1965), và sau này, Từ Chi (1996); các tiểu luận đáng chú ý về sau, ít nhất gồm: Phan Ngọc và Phan Đăng Nhật (1991; in lại trong Phan Ngọc 2000); ở ngoài Việt Nam, đáng chú ý với các học giả Nga: Nikulin (2006) và gần đây, một nghiên cứu của Nina Grigoreva (2015).

2. Phần này, tiếng Mọn, rõ là tiếng Mường, tộc danh tự xưng của người Mường. Nhưng tiếng Siên quan thì  của tộc nào? Phan Ngọc chú Siên quan là “tiếng gốc của người Mường” (Phan Ngọc 2000: 68), Nina tương tự, dù thận trọng hơn cũng tồn nghi Siên quan là tên cũ của Mường (old Muong-?) (Grigoreva 2015: 11). Từ dữ liệu thực địa dân tộc học vùng Thanh Hóa cho biết chính xác Siên quan là người phủ Thiên Quan, chỉ những người Mường Hòa Bình sống ở phủ Thiên Quan di dân vào Thanh Hóa, là nguồn gốc của một số lượng lớn người Mường Ngoài xâm nhập vào vùng đất này trong thời gian khá muộn, chỉ hơn một thế kỷ trước. Chi tiết này rất đáng chú ý, rõ ràng những người Mường Thanh Hóa, những người Mường Trong là Mọn trong danh xưng đã có sự phân biệt với Siên quan, tức người Mường Ngoài có gốc Mường Bi di dân vào tỉnh Thanh Hóa trong thời gian khá muộn sau này.

3. Mà chúng ta có thể dẫn ra vô vàn dẫn chứng, như chiếc máy bay gia nhập các tôn giáo và nghi lễ cổ sơ.  Mũ sa-man của thầy cúng Bru-Vân Kiều được Gábor cho biết có thêm cả biểu tượng của hiện đại như thẻ bài lính Mỹ, ghế nhựa trong xe ô tô đồ chơi, kính lúp (Gábor 2018: chương 9). Ở Tây Nguyên, tượng nhà mồ có người lính cầm súng, có máy bay. Trên thực địa, ở Tây Bắc, Mường Tè tôi đã gặp ở cổng thiêng vào thôn Hà Nhì ngoài các biểu tượng sức mạnh rừng núi cổ truyền còn tích hợp thêm sức mạnh bằng hình tượng máy bay.

4. Cách gọi phổ biến trước đây ở Việt Nam, chỉ các tộc người nói ngôn ngữ Tai-Kadai ở Việt Nam, mà đông  nhất là người Thái và Tày, Nùng hiện nay.

5. Hổ mang là loài rắn cạn, nhưng trong huyền thoại Thái lại xuất hiện từ nước, trú ngụ ở ao Nong Luông  (trung tâm Chiềng Ly, Thuận Châu) (Cầm Trọng - Phan Hữu Dật 1995: 41).

6. Có thể xem mô tả của Yukty (2007).  

7. Ở vùng Thái Phủ Tày, tư liệu này được biết đến gồm các văn bản sưu tầm, phiên âm Thái và dịch nghĩa  Việt của các tác giả người Thái như Cao Bằng Nghĩa và Hà Nam Ninh. Tư liệu chưa xuất bản, sưu tầm cá nhân.

8. Cặp đôi này, về sau sinh quả bầu là nguồn gốc loài người. Ở bản kể Thái họ học châu chấu “nhảy nhau”  mà sinh loài người. Ở bản kể Khơ Mú thuộc Mường Lát thì có con chim bay qua nói hai em phải ngủ với nhau, từ đó sinh loài người.

9. Huyền thoại Mường khởi sinh ở mường Ống, sát cạnh là các mường Ca Da, và mường Ký, mường Khoòng  của người Thái, nơi các học giả địa phương sưu tầm và chú dịch cho văn bản Tảy ắm oóc nặm đín.  

10. Xuân Nàng đây là cách Hán Việt hóa từ Xuốm Náng. Người Tày Dọ là cộng đồng có lối viết theo qui tắc  Hán tự, và cư trú gần người Việt nhất. Cộng đồng này, về mặt địa lý trên đất Việt Nam hiện nay, là cộng đồng cư trú gần biển nhất, ở Thanh Nghệ, họ cư trú ở những nơi chỉ cách biển khoảng 50km.   


------------------
Tư liệu dẫn:

-
Cầm Trọng - Phan Hữu Dật (1995), Văn hóa Thái Việt Nam, Nxb. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
- Cầm Trọng (1978), Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Cầm Trọng (1987), Mấy vấn đề cơ bản về lịch sử kinh tế xã hội cổ đại người Thái Tây Bắc Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Cuisinier, Jeanne (1946), Les Muong: Geographie Humaine et Sociologie. Institut d’Ethnologie, Paris.
- Đẻ Đất Đẻ Nước - Sử Thi Mường (1975), Ty Văn hóa Thanh Hóa xb.
- Gábor, Vargyas (Giáp Thị Minh Trang dịch) (2018), Bất chấp định mệnh Văn hóa và phong tục tập quán người Bru - Vân Kiều, Nxb. Dân Trí, Hà Nội.
- Grigoreva, Nina (2015), “The Muong Epics of ‘The Birth of the Earth and Water’ in a Viet-Muong Comparative Perspective: An Alternative Vision of the Common Past”, Higher School of Economics Research Paper No. WP BRP 118/HUM/2015.
-
Hà Bá Tâm (2018), “Người Tày Dọ và tín ngưỡng thờ trời”, Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 3 (177).
- Nikulin, N.I. (2006), “Thần thoại Việt - Mường về cây thế giới” và sự hình thành văn học” trong: N.I. Nikulin (Hồ Sĩ Vịnh - Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn, giới thiệu) (2006), Dòng chảy văn hóa Việt Nam, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
- Phan Ngọc (2000), Thử xét văn hóa - văn học bằng ngôn ngữ học, Nxb. Thanh Niên, Hà Nội.
- Phan Ngọc và Phan Đăng Nhật (1991), “Thử xây dựng lại hệ thống thần thoại Việt-Mường”, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1 và số 2.
- Robequain, Charles (1929), Le Thanh Hoá, Etude géographique d’une province annamite, Vol. 1 & 2, Les Editions G.Van Oest, Paris et Bruxelles: Publications de l’Ecole française d’ Extrême-Orient.
- Robert, R. (1941), Notes sur les Tay Dèng de Lang Chanh, Institut Indochinois pour l’Etude del’Homme, no 1, Hanoi.
- Trần Quốc Vượng - Nguyễn Dương Bình (1965), “Một vài nhận xét về mối quan hệ Mường Việt và quá trình phân hóa giữa tộc Mường và tộc Việt. Thông báo Sử học, tập V, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
- Trần Từ (1996), Người Mường ở Hòa Bình, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
- Yukti Mukdawijitra (2007), Ethnicity and Multilingualism: The Case of Ethnic Tai in The Vietnamese State, Ph.D. dissertation, University of Wisconsin - Madison.  



 

Các bài đã đăng
Chùm thơ Lê Hào (07/08/2020)
Kính vỡ (15/07/2020)