Tồn tại và phát triển giữa vùng văn hiến Kinh Bắc trong nhiều thế kỷ, tranh dân gian Đông Hồ hội tụ tâm thức ngàn năm của người Việt và thể hiện độc đáo bằng ngôn ngữ mỹ thuật. Nhằm lưu giữ, phát huy giá trị của dòng tranh này, hồ sơ Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ đang được xây dựng để đề nghị UNESCO ghi vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
“Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Chia sẻ tại buổi ra mắt sách “Dòng tranh dân gian Đông Hồ” sáng 31.7, tác giả Nguyễn Thị Thu Hòa (chủ biên) cho rằng, tranh Đông Hồ vượt thời gian, từ buổi bình minh đã chứng tỏ có sức sống mãnh liệt, kinh qua mọi thăng trầm, để tồn tại cho đến ngày hôm nay. Đây là dòng tranh dân gian lâu đời nhất, đa dạng nhất và có số lượng sản phẩm nhiều nhất của Việt Nam. Câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Hoàng Cầm đã nói lên nét riêng của dòng tranh xứ Kinh Bắc: “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Chính “màu dân tộc” và “giấy điệp” đã làm nên “chất Đông Hồ”, khác với các dòng tranh dân gian còn lại ở nước ta.
Tìm về kho di sản này và chụp hàng nghìn bức ảnh, mô tả khá chi tiết về làng tranh, các bước làm tranh, các bức tranh nổi tiếng và những nghệ nhân tiêu biểu, nghệ sĩ nhiếp ảnh Lê Bích chia sẻ, xưa nay, mọi người khi nhắc đến tranh dân gian Đông Hồ chỉ nghĩ đến loại tranh dân gian khắc gỗ và vẽ tay. Tuy nhiên, các nghệ nhân còn sản xuất một số tranh đồ thế phục vụ nhu cầu tín ngưỡng, tâm linh và làm tranh trổ giấy. Trong cuốn sách, bên cạnh lịch sử của làng, giới thiệu chi tiết về tranh khắc gỗ và vẽ tay, nhóm tác giả cố gắng giới thiệu hai loại tranh còn được ít người biết đến này.
So sánh với các dòng tranh dân gian, họa sĩ Lê Thiết Cương thấy rằng, Đông Hồ mang nét đẹp riêng biệt, “cực kỳ” Việt Nam. Cách tạo hình của tranh Đông Hồ gần với cách tạo hình điêu khắc của đình làng. Hơn nữa, trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, dòng tranh này có nhiều tranh cổ động mang tính chính trị, báo chí, nghĩa là hội họa dân gian đã được cộng thêm đời sống khác. Đến nay, không chỉ có giá trị mỹ thuật, những tác phẩm ấy còn mang tính lịch sử...
Dành nhiều năm nghiên cứu, PGS.TS. Trịnh Sinh, Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam nhận định: “Nền mỹ thuật Việt Nam có một kho báu là tranh Đông Hồ. Đi vào khai thác di sản này đã cho các thế hệ làm mỹ thuật một hướng đi vững bền và đậm đà bản sắc dân tộc. Tranh Đông Hồ, vì thế sống mãi với thời gian, và công trình này của chúng tôi góp phần nhỏ bé để tìm ra chân giá trị của tranh dân gian Đông Hồ, quảng bá nó và bảo tồn, phát huy giá trị vốn di sản này”.
Xây dựng hồ sơ tranh Đông Hồ
Nhằm tôn vinh những giá trị độc đáo của tranh dân gian làng Hồ ven sông Đuống, đặc biệt là khi dòng tranh đang đứng trước nguy cơ mai một, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã có văn bản đồng ý với đề xuất của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc xây dựng hồ sơ “Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ”. Đảm nhiệm việc xây dựng hồ sơ này, GS.TS. Bùi Quang Thanh, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam cho biết: “Hồ sơ về nghề tranh dân gian Đông Hồ sẽ đề nghị UNESCO đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp. Đây là di sản thứ 3 của Việt Nam đề nghị UNESCO đưa vào danh mục này. Cho đến nay, hồ sơ đang trong giai đoạn hoàn tất”.
Theo GS. TS. Nguyễn Quang Thanh, sở dĩ đề nghị UNESCO đưa tranh dân gian Đông Hồ vào danh mục di sản cần bảo vệ khẩn cấp là bởi dòng tranh này đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, mang giá trị to lớn, nhưng lại đang mai một. Theo thống kê, hàng nghìn bản khắc đang được lưu trữ tại 3 gia đình nghệ nhân gắn bó với nghề tranh tại làng Đông Hồ, nhưng phần lớn để phủi bụi, bởi đặc điểm chung của làng nghề Việt Nam, trong đó có tranh dân gian, là đang gặp thách thức lớn về đầu ra. Thế hệ nghệ nhân có năng lực chạm khắc càng ngày càng ít, số người chạm khắc bản mới rất ít, nguyên liệu làm tranh ngày càng hiếm. “Hiện nay ở làng Đông Hồ chỉ còn 3 gia đình nghệ nhân say mê với nghề, tổng cộng chỉ có 34 người. Nghề làm tranh có những bí quyết, nhiều công đoạn, không phải mở lớp là đào tạo được lớp kế cận”.
Tuy nhiên, gần đây, nghề làm tranh đã nhận được sự quan tâm của tỉnh Bắc Ninh, đặc biệt là dự án đầu tư xây dựng Trung tâm Bảo tồn tranh dân gian Đông Hồ lên tới 91 tỷ đồng, thực hiện từ năm 2018 - 2020. Trung tâm đặt tại Xã Song Hồ và xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, với diện tích sử dụng đất 19.282m2, gồm nhà truyền thống, nhà giới thiệu quy trình làm tranh, tu bổ nhà thờ, mở lại chợ tranh ngay tại đình... Góp sức quảng bá di sản tranh Đông Hồ, các đại sứ quán thông qua cơ chế ngoại giao dùng tranh Đông Hồ làm quà tặng, nghệ nhân tranh dân gian cũng tự thân vận động tham gia hội chợ, triển lãm trên toàn quốc... Nhờ đó, khách du lịch trong và ngoài nước đến làng tranh ngày một tăng.
“Tháng 12 năm nay, hồ sơ sẽ trình Hội đồng Di sản Quốc gia thẩm định, xét duyệt, trước khi hoàn thiện và trình Thủ tướng. Tuy nhiên, hồ sơ này đang phải “xếp hàng”, bởi tháng 12 tới, UNESCO sẽ bỏ phiếu cho hồ sơ “Then Tày, Nùng, Thái”, tháng 12.2020 là “Nghệ thuật Xòe Thái”, rồi “Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm”, sau đó mới đến tranh dân gian Đông Hồ” - GS.TS. Nguyễn Thanh Quang cho biết. Tuy nhiên, ông cũng kỳ vọng, với nhận thức rõ giá trị của dòng tranh dân gian Đông Hồ, sự quan tâm của Nhà nước, giới nghiên cứu và nỗ lực của các nghệ nhân, nếu được UNESCO công nhận sẽ là cú hích để tranh dân gian Đông Hồ phục hồi và phát triển.