QUẾ HƯƠNG
Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.
Bùn khắp nơi trên mái, trên tường, trên đầu ngọn cỏ ngọn cây, trong đền đài lăng tẩm... trông như những vệt nước mắt trên gương mặt dịu dàng thân thương của Huế. "Về chợ Dinh hả? Ui chao! Bùn dày cả thước. Chịu thôi cô!" - anh xe thồ lắc đầu rồi cũng chở tôi đi. Loanh quanh tìm lối đã khơi bùn. Trên dây phơi, sách! Trên mái, sách! Hàng hiên, sách! Những quyển sách nhòe nhoẹt lệ khóc cho cái chết của thời gian! Gặp một đám cưới lúng ta lúng túng trong bùn. Hạnh phúc đến thì vẫn nở.
Tháng tư về lại. Trôi trên dòng-sông-người. Không khí lễ hội trên từng nẻo đường bừng sáng khuôn mặt u trầm, lặng lẽ của Huế. Đêm khai mạc Festival 2000 tôi bị cuốn theo dòng người cuồn cuộn chảy vào Thành nội. Những cổng thành cũ kỷ rêu phong tường như rung rinh theo làn sóng người hăm hở. Đi và thấy người! Bạn đã khuyên: "Ở nhà uống trà, coi ti vi, đi không thấy chi mô! Trên khán đài dành cho đại biểu và khách quí". Thật vậy, người Huế những ngày này sẵn lòng "nhịn miệng đãi khách". Mấy khi "Huế mình" trở thành ngôi nhà lớn chứa nhiều loại hình văn hóa dân tộc, một Festival của nhiều miền, một "Việt Nam trong Huế". Tôi trở ra cửa Nhà Đồ như lội nước nguợc dòng. Làn sóng người dập dềnh đến chóng mặt. Ghé vào hội chợ lại chen trong biển người và tắm bụi. Nửa mừng cho Huế được lắm người yêu, nửa thấy nhớ một Huế yên tĩnh, từ tốn, trầm lắng, nhẹ nhàng. Chiều. Đi dưới những đường - phượng - bay. Trời đất Huế đẹp đến mềm lòng. Những cánh diều nhiều kiểu dáng vẽ trên trời xanh những nét lượn nao lòng. Sợi dây mỏng mảnh phập phồng nối trời và đất, đời thường và khát vọng... Trong không gian thoáng đãng, an bình, những cổng thành Huế đẹp lạ - tự tại cũ, an nhiên già! Vào vườn Thư pháp gặp sư: "Nhặt chút hương tĩnh lặng. Uống chén trà vô vị. Thế gian không hỏi nữa. Sinh tử có làm chi!"... Thơ tĩnh mà nét bút động, muốn vờn bay khỏi gỗ đá. Lòng dìu dịu như nhắp chén thanh khiết người mời người. Qua cồn Hến, ghé quán bên sông. Tre gầy thanh thoát. Sông xanh thăm thẳm. Cơm hến cay sè, chè bắp ngọt lịm. Chẳng muốn về. Muốn khóc vì bụi thanh xuân gió cuốn, vì màu bùn trên đọt cây mà năm tháng rồi mưa chưa gột hết kia, vì giai điệu cuộc đời trong tô cơm hến ngọt bùi cay mặn, vì nền đất mẹ mấp mô mát lạnh dưới chân. Về lại dòng sông. Thắm thía câu thơ người qua để lại "Hương Giang nhất phiến nguyệt. Kim cổ hứa đa sầu". Sông là tặng vật vô giá tạo hóa dành cho Huế tôi. Màu sông như màu mắt người Huế - dịu mơ mà biến động. Tiếc là tôi không được ở lại đến ngày hội hoa đăng ngày đám cuới dòng Hương. Hẳn kỳ ảo, lung linh lắm. Trước mắt tôi trẻ đang chơi thả thuyền, những chiếc thuyền lá bé tẹo như thuyền của công chúa tí hon chòng chành rồi lãng đãng trôi về nơi vô định. Chuyến tàu chợ đưa tôi rời Huế sáng thứ hai ấy đông đến sợ. Kín lối đi, kín cửa, thế mà ở những ga dừng gần Huế, sinh viên vẫn nườm nượp lên ken nhau đứng, mỗi người năm ngàn. Họ đi như tôi, với chút tiền còm, đôi ngày ngắn ngủi. Toa tôi có hai người xỉu. Một bà bán cháo bị bệnh cao huyết áp lên từ Truồi. Nồi cháo vào lối cửa sổ rồi không cựa quậy nổi phải theo về Đà Nẵng. Khi dừng ở cư xá sinh viên, một đám khiêng xuống một nữ sinh viên mặt xanh như tàu lá, nước mắt dàn dụa... Cả nhà cười tôi ra Huế trong dịp Festival mà còn thua ngồi nhà coi tivi. Không "in" không "tour" không khai mạc, bế mạc... Chỉ tôi biết vì sao yếu đuối như tôi mà trọ nổi trên chuyến tàu ngột ngạt sáng ấy thoáng Huế dịu dàng, thoáng Festival với những cánh diều bay bổng trong chiều Thành nội đã vỗ về tôi trên chuyến tàu "bão táp". Hạnh phúc có giá của nó và ngang tầm với mỗi người. Đối với tôi thế là đủ, hỡi Huế! Q.H (135/05-00) |