LGT: Hoàng Công Danh sinh ra và lớn lên ở làng Phúc Lộc, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Ngoài tập truyện Cõng nhau trong một kiếp người, Hoàng Công Danh còn có tập tùy bút Khói sẽ làm mắt tôi cay (NXB Trẻ, năm 2014).
Đây là cuốn thứ hai của tác giả trẻ Hoàng Công Danh nhưng là những trang viết đầu tiên, khi còn đang học tại nước ngoài, Belarus. Ngoài ra, bạn còn có nhiều truyện đăng trên Giác Ngộ, Tuổi Trẻ... Danh hiện đang làm việc ở chính quê mình Quảng Trị, sau khi nhận bằng thạc sỹ Vật lý lượng tử. Tác giả tâm sự “đây là tập sách tôi rất muốn được in, kể từ lúc mới viết. Vì nó có những điều tôi muốn gửi gắm”. (Báo Giác Ngộ)
“Tác giả Hoàng Công Danh nhìn thế giới, vốn không phẳng lặng và không đơn giản, qua cặp mắt một đứa trẻ. Ngộ nghĩnh, hóm hỉnh, nhưng sáng rõ, rành mạch. Giáo lý và nhận thức cuộc sống vì vậy đã trở nên sống động và khá hấp dẫn. Chuyện con heo đến chùa như có căn tu, được nhà sư chăm nuôi, mà gây ra bao chạnh lòng xao xuyến”. (Nhà văn HỒ ANH THÁI)
HOÀNG CÔNG DANH
Nuôi heo trong chùa
Truyện ngắn
“Chùa mà cũng nuôi heo”. Người ta nói thế không biết khen hay chê. Nhưng chắc chắn chuyện này lạ, và gây tò mò. Nhiều người đến chùa chẳng phải với mục đích viếng Phật mà chính là vì hiếu kỳ, muốn chứng thực coi cái điều đồn đại ấy có đúng không. Vớ vẩn thế!
Con heo này thầy nuôi lâu lắm rồi, từ bữa mới về trụ trì đây cơ. Một buổi chiều tình cờ trong vườn chùa lạc vào một con heo, hình như nhà ai đó cúng tạ lăng mới phóng sanh. Đã phóng sanh thì chẳng lẽ bắt lại? Nhưng sao nó lại lạc vào đây. Chắc tại vườn chùa nhiều cây cối, mà ở đời cái sự trốn tránh luôn tìm nơi rậm rạp. Vậy người tu hành có phải trốn tránh không mà vườn chùa cũng rậm rạp?
Lúc đầu sư thầy chẳng có ý định bắt giữ. Thầy nghĩ heo nó khôn lắm, thế nào rồi cũng tìm về cái nơi được sinh ra. Nhưng suốt hai ba hôm sau con heo vẫn đi long nhong quanh vườn, phóng uế lung tung, thi thoảng lúc thầy đang tụng kinh trong chánh điện lại nghe tiếng khịt khịt trái tai. Chẳng đặng đừng thầy phải đóng bốn cọc tre, nẹp mấy tấm ván bìa xung quanh làm thành cái chuồng. Ném vào trong ít ngọn rau khoai lang, thế là con heo chui ngay vào nhai ngon lành. Thầy khóa cửa chuồng lại, tạm thời cứ cho nó sống ở đây, mai mốt có ai đến xin thì thầy cho. Nhiều khi đấy cũng là một cái duyên, nó có mến chùa thì mới đến. Mà cũng có thể là nghiệp của con heo, trải qua mấy ngàn lần tích lũy công đức tiền kiếp mới được thế này. Và nhà Phật gọi cái đức ấy là căn tu.
Nhiều người đến viếng chùa thấy lạ, rỉ tai nhau. Từ bữa đó chùa đông người đến thăm viếng hơn. Thầy nghĩ nơi này hẻo lánh, đạo Phật chưa ai biết. Nhờ con heo mà người ta đến chùa thì cũng là một điều hay. Chùa được giáo hội phong hiệu tự đàng hoàng, song, người ta quen gọi ngôi chùa heo, hơi thô thiển nhưng không thể trách. Gọi thế cũng như dân gian hay gọi tên quai nôi, mà tên quai nôi thì có đâu sang với đẹp.
Cũng may heo là loài ăn chay được, chỉ cần rau ráng ngũ cốc thôi. Xong bữa cơm còn đồ thừa thầy đem đổ vào máng cho nó. Rồi thầy phát quang mảnh đất cỏ rậm sau nương chùa, trồng khoai lang. Người mới khó nuôi chứ heo thì dễ, cho gì nó ăn nấy. Ăn như heo. Thành ra có nuôi heo cũng hay, tận dụng được những thứ thừa thãi. Bậc tu hành vốn sống nhờ công đức của chúng sanh, mỗi miếng ăn phải biết quý trọng công sức lao động của người đời.
Con heo lớn nhanh, thầy phải nới cái chuồng ra rộng thêm cho nó có chỗ đi lui đi tới. Nhờ chay tịnh mà con heo láng mịn, da lông mọc thưa. Chỉ có điều nó là con heo cái, dân mình hay gọi heo nái, nhưng nó có đẻ đâu mà gọi là nái.
Người đến chùa vô tình buột miệng, con heo này phối đực được rồi đấy. Phỉ phui cái miệng, nhà chùa không ủng hộ chuyện đó. Trong mầm sinh có chủng tử khổ đau, có manh nha tử biệt. Sinh trụ hoại diệt là quy luật muôn đời của loài hữu tình, cũng là nghiệp chướng mà nhà Phật phải vượt qua để đạt giải thoát.
Vào kỳ động dục, con heo cái cứ dũi mõm sủi đất nền, húc phá bốn bức thành, thức ăn đổ vào nó vớt vát qua quýt vài miếng rồi đẩy lật cái máng đi. Tham dục vốn là căn nguyên của mọi tội lỗi. Phá một hồi chán nó lại nằm ì ra giữa nền. Sư thầy đưa tay vuốt dọc từ đầu nó xuống tận đuôi, như an ủi động viên, như cầu mong thứ lỗi. Thầy không thể làm khác được. Có người nói như thế là ác. Trời sinh ra có đực có cái thì phải cho nó đến với nhau chớ.
Nhờ sống cảnh thanh tịnh, ăn chay tịnh riết con heo cũng bớt dần cái tham đắm bản năng ấy. Cứ mùa dậy cái sau lại bớt quậy phá đi. Nhưng cội rễ si mê thì khó bỏ lắm. Nó nằm ì ra, chán ăn. Ngó đâm tội mà chẳng thể cho nó toại nguyện. Vào chùa là chấp nhận những nguyên tắc ràng buộc để về sau được giải thoát. Thôi coi như kiếp này nó chấp nhận tu hành hòng kiếp sau được đầu thai làm người. Mà kiếp người cũng khổ chớ sướng sung chi đâu. Ừ, nhưng đấy là sự đầu thai gần nhất để thăng lên cõi Phật.
*
Khi Sanh vào chùa cạo đầu làm chú tiểu thì con heo đã được mười tuổi rồi, ở chùa nên tuổi heo cũng gọi là tuổi đạo. Nó cũng tu mà, có khi còn tu nhiều hơn con người nữa là khác. Mỗi lần hai thầy trò tụng kinh thì con heo nằm oẹp xuống, hướng mũi vào trong chùa, tai vểnh lên như nghe kinh, mắt nhắm lại chẳng khác nào nhập pháp.
Con heo được nuôi nấng và chăm sóc chu đáo. Quanh năm, ngày nào hai thầy trò cũng múc nước tắm cho nó. Mùa nóng thì tắm bằng nước giếng, mùa lạnh pha thêm nước sôi cho ấm. Điệu Sanh xắn tay áo lên, cầm một cục sỏi to cọ quanh mình con heo.
Từ khi có chị bán vải, cái chị không sinh được con đã ly dị chồng ấy, đến chùa thì chị đỡ đần giúp. Dù sao có bàn tay phụ nữ mọi việc thu vén chăm bẵm cũng tốt hơn nhiều. Con heo coi chừng thích được chị chăm sóc, nó nhắm nghiền mắt lại vẻ thích thú mỗi lần được chị cọ xát lên da. Chị xoa tay vào chỗ bụng con heo, sờ mấy cái núm xám đen rồi chép miệng: “Thế này mà không đẻ đái được gì cũng buồn”. Điệu Sanh đứng bên ngoài buột miệng: “Tại thầy không cho nó đẻ đấy”.
Trái ngoắc vậy đó, người muốn có con thì chẳng sinh được, kẻ sinh được lại không ai cho. Chị thèm khát mong mỏi có được cái diễm phúc làm mẹ mà chẳng được. Nhiều khi chị nghĩ nếu mình đổi phận với con heo thì có lẽ hay. Cho nó ra ngoài mặc sức sinh con, để chị vào chùa ở chay ở nể. Nhưng nghĩ là nghĩ vu vơ vậy, chớ có căn tu cả đấy. Lâu nay chị vốn là một đệ tử sùng đạo Bổn sư, một phật tử thân tín nhà chùa, năng lui tới thăm viếng và đóng góp công quả. Chỉ chừng ấy thôi thì tốt, còn cạo trọc đầu làm ni sư thì khó lắm.
Con heo cái lớn hết cỡ, bụng phình xệ xuống chạm sát nền chuồng, đi lại khó khăn. Suốt ngày nó nằm một chỗ, mắt nhắm nghiền, thở nhẹ, thi thoảng co duỗi chân cựa quậy một chút cho đỡ tẻ. Những ngày chùa có lễ, bà con Phật tử đến đông, cứ vây quanh cái chuồng ngó con heo cái. Người tỏ vẻ thích thú khi ngắm lớp da dẻ trắng hồng của nó, heo nái ở ngoài nhăn nheo chớ làm sao được khuôn dung như thế. Người lại cảm thương cái phận nằm chờ vô thưởng vô phạt, lại tiếc khi ngó mấy cái núm ú tròn ở bụng heo, giống này mỗi lứa phải sinh được trên chục con bụ bẫm chứ chẳng phải chơi. Đa phần người ta mủi lòng thương, bảo thầy nhốt chi con heo, kìm giữ cái khát khao sinh nở của nó. Lạ một điều là người ta không bao giờ biết rằng cuộc sống trần tục vướng nhiều sự khổ não hơn. Chẳng thương lấy cái thân mình trong cõi cuồng mê, lại bận tâm trắc ẩn cho kẻ khác.
Những ngày sóc vọng như thế chị bán vải ở miết trong chánh điện, phụ lo dầu đèn, lau quét tàn nhang, ai đưa hương hoa đến viếng thì chị nhận rồi sắp đặt. Nhất quyết chị không ra chỗ chuồng heo, cứ như thể sợ người ta nhắc đến chuyện sinh đẻ thêm buồn.
Tiếng tăm ngôi chùa heo lan xa. Tiếng tốt tiếng xấu đều có. Thiên hạ đồn đại thêu dệt trăm chuyện như mộng. Người bảo con heo là hóa thân của vị Bồ Tát từ cung trời đâu suất giáng hạ nhập thế. Ai muốn cầu xin điều gì cứ đến vườn chùa, khấn thầm rồi sờ tay vào con heo là được. Kiểu như các sĩ tử đến mùa thi đổ xô vào Văn Miếu xoa đầu các cụ rùa đá để mong đỗ đạt.
Thế là con heo cái lạc loài bỗng dưng được hóa thiêng. Người ta kiêng cữ, không gọi nó bằng cái tên heo phàm tục nữa mà xưng chung chung là Chú, như gọi một chú tiểu. Ai đến chùa đều nói ra vườn thăm Chú. Người ta càng sùng bái Chú chừng nào thì thầy thêm lo chừng nấy. Đạo Phật là chân tín, không chấp nhận những trò mê muội đó. Sư thầy bước ra chuồng, nhìn con heo cái nằm an nhiên, yên trí rằng nó đang thiền định. Tâm nó từng ngày lãnh nhận dần những quả đắc lợi. Chẳng có thần thánh thiêng liêng gì đâu, sư thầy chỉ nghĩ đơn giản là con heo có căn tu.
Chị bán vải đến chùa thường xuyên. Cái tâm chị tốt, muốn nương tựa vào tam bảo như một bến bờ vững chắc, và chị làm thiện nguyện chỉ mong phần đời còn lại được sống an lạc, chẳng đòi hỏi gì hơn. Thế nhưng đàn bà thường nhẹ dạ cả tin. Nghe người ta bảo bữa nhờ sờ vào tai Chú mà làm ăn khấm khá lên, một cô mãn kinh nói xoa đầu Chú thì hết bệnh nhức óc… Lúc đầu chị không tin lắm. Rồi nghe thêm mấy người khác nữa kể, chị đâm hoang mang, và tin. Ở đời đôi khi điều giả nhưng nhờ người ta nói hoài mà thành sự thật.
Lần thấy chị tắm cho heo, điệu Sanh hỏi: “Cô có xin Chú điều gì không? Cô tắm cho Chú hoài thể nào xin cũng được”. Vừa lúc ấy chị lần tay xoa vào phần bụng con heo. Chị nghĩ, giờ có xin cũng đã muộn. Rồi chị ngẩn ra cười méo mó, chắc mình có xin Chú cũng không thể cho, vì Chú cũng đâu có sinh được nhiệm mầu công lực ấy.
Buổi chiều chị xách làn từ chùa trở về nhà. Nước mắt tự dưng chảy. Không rõ đang thương heo hay thương mình.
H.C.D