Văn nghệ trong nước
Thời đại trí tuệ, tình yêu thương và hành động
16:26 | 28/03/2014

Người đứng đầu Truyền thừa Phật giáo Kim cương thừa Drukpa thế giới - Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa - sẽ thăm Việt Nam từ ngày 05 đến 21/4/2014 theo thỉnh cầu của Drukpa Việt Nam. Vào 8h30 ngày 05/4/2014, tại Văn - Miếu Quốc Tử Giám, Hà Nội sẽ khai mạc Triển lãm “Yêu thương trong hành động” của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa (Đức Phật Sống) trên thế giới. Sau đó là buổi tọa đàm giữa Đức Pháp Vương với Hội Nhà văn Việt Nam. Nội dung cuộc tọa đàm này nói về hiện thực hóa tình yêu thương và con đường đi qua bóng tối trong tâm hồn con người. Hội Nhà văn VN sẽ có giấy mời gửi tới một số nhà văn tham dự cuộc tọa đàm này.

Thời đại trí tuệ, tình yêu thương và hành động
Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa

Trong chương trình viếng thăm Việt Nam, Đức Pháp Vương Gyalwang và tăng đoàn Phật giáo sẽ cử hành Pháp hội quán đỉnh cộng đồng (nghi lễ cho phép thực hành pháp tu), cầu nguyện quốc thái dân an, cầu siêu hương linh liệt sĩ, đồng bào tử nạn, chia sẻ Phật pháp tại Hà Nội, Nam Định, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương và TP HCM. VanVN.Net xin trân trọng giới thiệu một số nét về cuộc đời của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa.

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa: “Dòng thời gian luôn trôi mãi, đó là chân lý vĩnh hằng. Trong khi ấy, mọi hình tướng, sắc thái bề ngoài của thế giới lại luôn thay đổi theo bản chất luân hồi.Chúng sinh mãi kẹt trong vòng quay sinh tử luân hồi, bị cuốn trôi bởi tham sân si. Vẫn một tâm thức ấy di chuyển từ thân xác này sang thân xác khác. Có khi chúng ta là súc sinh, có khi là người, và có khi là thần tiên trên cõi trời. Nghiệp là năng lực dẫn dắt chúng ta trên hành trình sinh tử lúc đắng cay, khi hạnh phúc của chính mình.Cuộc đời chỉ là một giấc mộng trường miên. Người anh hùng là người tỉnh thức thoát khỏi giấc mộng đó”.

Cách đây khoảng 1.000 năm, 14 thế kỷ sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn, Phật giáo Ấn Độ lại bước vào thời đại hoàng kim rực rỡ thịnh vượng với nhiều Đại hành giả thực chứng và thành tựu Phật quả ngay trong một đời. Những bậc xuất chúng siêu việt ấy có khả năng du hý bay lượn trong không trung, đi trên mặt nước, xuyên qua tường, để lại dấu ấn thành tựu trên đá, cải tử hoàn sinh và phô diễn vô số đại thần thông bất khả tư nghì khác.  Vì vậy, các Ngài được tôn xưng là Mahasiddha nghĩa là Đại Thành tựu giả.

Trong số 84 Đại Thành tựu giả trứ danh trong lịch sử Phật giáo Ấn Độ, Đức Naropa là một trong những bậc siêu việt phi thường nhất. Ngài chính là hóa thân chân thật của Đức Quán Âm ứng hiện hộ trì Phật pháp và lợi ích chúng sinh. Với trí tuệ và tài hùng biện trứ danh thông suốt toàn bộ Kinh điển và Mật điển, Ngài từng được tín nhiệm trao giữ chức Viện Trưởng Đại học Phật giáo Nalanda, trở thành vị Bảo Hộ Trấn Cửa Phương Bắc.

Trên con đường tìm cầu giác ngộ, Ngài đã hạnh ngộ Căn bản Kim cương Thượng sư Tilopa, vượt qua nhiều thử thách khó khăn để thụ nhận giáo pháp giải thoát và chứng đạt giác ngộ tối thượng.Sau khi thành tựu Phật quả, Đức Naropa truyền dạy giáo pháp cho vô số đệ tử ở khắp mọi miền và phô diễn vô số đại thần lực, dùng phương tiện thiện xảo cùng vô lượng vô biên công hạnh để lợi ích hữu tình. Ngài được tôn vinh là Đấng Chiến Thắng Mười Phương, bậc Kim cương Thượng sư Đại Thành tựu giả lẫy lừng với tầm ảnh hưởng không chỉ trong Phật giáo Ấn Độ thế kỷ XI mà còn trải rộng khắp tới tất cả truyền thống Phật giáo Đại Thừa - Kim Cương Thừa về sau này.

Kinh điển dạy rằng khi Đức Phật đản sinh có chín rồng thiêng phun mưa nước tắm cúng dường đón Đức Thế tôn ứng hiện cõi Sa bà, ban giáo pháp từ bi hỷ xả đem lại hạnh phúc cho muôn loài hữu tình. Gần 1.000 năm về trước, khi chứng kiến điềm cát tường chín rồng thiêng cuộn mình phi thiên, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ I đã đặt tên Truyền thừa mệnh danh “Drukpa” nghĩa là Truyền thừa Rồng thiêng, nêu biểu giáo pháp giác ngộ từ bi trí tuệ trải khắp muôn phương phụng sự nhân loại và vũ trụ.

Việt Nam, đất nước với dải đất hình Rồng bay lên cũng là nơi lưu truyền nhiều truyền thuyết hào hùng về rồng thiêng như sự tích Lạc Long Quân – Âu Cơ, huyền thoại về Vịnh Hạ Long hay câu chuyện diệu kỳ về sự kiến lập Thủ đô Thăng Long – Hà Nội. Vượt trên dòng thời gian một ngàn năm và khoảng cách xa xôi là mối giao cảm Phật pháp và nhân duyên cát tường giữa Truyền thừa Drukpa với miền đất Rồng thiêng và đặc biệt là Thủ đô Thăng Long nghìn năm văn hiến.

Sử sách còn ghi lại rằng cách đây 1000 năm, khi đến vùng Đại La và chứng kiến điềm Rồng Vàng cát tường từ sông Hồng cuộn mình bay lên, vua Lý Thái Tổ, vị vua đầu tiên của triều đại nhà Lý, đã quyết định chọn linh địa này làm kinh đô mới và đặt tên là Thăng Long, có nghĩa là “Rồng bay lên”. Vua Lý Thái Tổ là một vị vua Phật tử tài giỏi, thuần thành và thuấn nhầm Phật Pháp.  Ngay từ thuở thiếu thời, ông đã được Thiền sư Vạn Hạnh - một bậc Thượng sư chứng ngộ giáo dưỡng. Dưới thời trị vì của ông và các đời vua kế tiếp, đạo Phật trở thành quốc giáo của Việt Nam. Các vị vua thời Lý - Trần thường thỉnh mời các bậc Đại sư thực chứng đạo hạnh làm Quốc sư,  cố vấn về các mặt chính trị, kinh tế, giáo dục, văn hóa và tôn giáo, giúp việc trị quốc an dân thời bấy giờ được thấm nhuần tư tưởng từ bi, trí tuệ, vô úy hỷ xả của Phật pháp.

Phật pháp thịnh trị tới mức thủa ấy, “trong nước chỗ nào cũng có chùa chiền, nhân dân quá nửa là sư sãi”. Các giá trị minh triết và đạo đức Phật giáo được áp dụng rộng khắp trong thời kỳ này  đã  giúp đất nước được an bình, thịnh vượng dài lâu, để lại mốc son rực rỡ trong lịch sử Phật pháp và dân tộc.

Nhân duyên cát tường hội đủ, đúng 1.000 năm sau, trong Đại lễ kỷ niệm Thiên niên kỷ thành lập Thủ đô Thăng Long – Hà Nội, cũng là Đại lễ kỷ niệm Di sản Thiên niên kỷ Naropa 1.000 năm Phụng sự Nhân loại và Vũ trụ của Truyền thừa Drukpa, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa, bậc được kính ngưỡng là hiện thân của Đức Quán Âm, là hóa thân chuyển thế của Đức Naropa, đồng thời là vị lãnh đạo tâm linh của Truyền thừa Phật giáo Đại Thừa - Kim Cương Thừa Drukpa đã viếng thăm và ban truyền Giáo pháp Quán đỉnh tại Việt Nam.

Nhân dịp này, Drukpa Việt Nam xin hân hạnh giới thiệu với Quý vị bộ phim: “Thời đại trí tuệ, tình yêu thương và hành động”, truyền kỳ lịch sử về Đức Pháp Vương và Truyền thừa Drukpa quang vinh, từ khởi nguồn qua dòng lịch sử 1.000 năm phụng sự nhân loại và vũ trụ tới hành trình theo gót chân sen của Đức Pháp Vương và chư Tăng Ni Truyền thừa trong chuyến viếng thăm giảng pháp quán đỉnh cộng đồng, cầu nguyện quốc thái dân an tại Việt Nam.

Từ chân lý tuyệt đối, chư Phật và các bậc Thượng Sư giác ngộ là trí tuệ Pháp thân, các Ngài thị hiện dưới nhiều sắc tướng khác nhau trong hình thức Báo thân hay Hóa thân song không bao giờ rời tự tính trí tuệ Pháp thân.

Xuất phát từ tâm nguyện vị tha và lòng từ bi vô lượng cùng Bồ đề nguyện vô tận, các Ngài chủ định hóa thân chuyển thế thành các bậc Thượng sư giác ngộ trong cõi luân hồi với mục đích duy nhất là đem đến niềm an vui chân thật cho tất cả chúng sinh hữu tình  và đánh thức tiềm năng tâm linh vốn sẵn đủ từ bi và trí tuệ nơi mỗi người. Chừng nào chúng sinh còn trầm luân trong biển khổ, thì các Ngài vẫn không ngừng thị hiện các Ứng Hóa thân để tận độ giải thoát. Với mỗi tâm niệm, hơi thở, nhịp đập của trái tim đều cống hiến trọn vẹn cho sự nghiệp vô ngã vị tha,phụng sự nhân loại và vũ trụ, các Ngài được tôn xưng là các bậc Hóa thân chuyển thế Kim cương Thượng sư, xứng đáng với vô lượng tán thán cúng dàng của pháp giới chúng sinh.

Lịch sử Truyền thừa Drukpa khởi nguồn từ Đức Phật Nguyên Thủy Kim Cương Tổng Trì, Ngài là chủ của một trăm Phật Bộ và là hiện thân của tất cả chư Phật trong ba đời. Nguồn Pháp mạch của Truyền thừa được ban truyền trực tiếp từ Đức Phật Kim Cương Tổng Trì tới Đức Tilopa, một Đại thành tựu giả Ấn Độ vào thế kỷ thứ X. Đức Tilopa tiếp tục truyền giáo pháp  giác ngộ cho Đại thành tựu giả Naropa. Sau Đức Naropa, Truyền thừa được tiếp nối không gián đoạn đến Đại Thượng sư Marpa vào thế kỷ XI, rồi tiếp tục được truyền xuống Đại thành tựu giả Jetsun Milarepa là Bậc thành tựu giác ngộ đại hợp nhất ngay trong một đời; Sau đó, Đức Milarepa truyền tiếp đến Đức Gampopa, Đấng ‘Trăng rằm’ vô song, là bậc đã được Đức Phật Thích Ca huyền ký trong nhiều Kinh điển và Mật điển, Ngài cũng chính là hóa thân chuyển thế khác của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa.

Từ Đức Gampopa, Truyền thừa tiếp tục được truyền xuống tới Ngài Phagmo Drupa vinh quang, vị Thành tựu giả có hồng danh Khampa Dorje Gyalpo và là hóa thân của Phật Ca La Ca Tôn Đại hay Đức Phật thứ hai của hiện kiếp này; Tiếp đó, Pháp mạch Truyền thừa được truyền tới Đại Thành tựu giả Lingchen Repa, Đấng thành tựu hạnh xả ly với sự chứng ngộ cao quý tuyệt đối.

Truyền thừa được chính thức mệnh danh là Drukpa từ thế kỷ thứ XII, khi Đức Quán Âm Đại Từ Đại Bi hóa thân nơi miền đất tuyết Himalaya là Đấng Drogon Tsangpa Gyare tôn quý, vị Đại đệ tử vô song của Đại thành tựu giả Lingchen Repa. Trong hồng danh của Ngài,  "Drogo" nghĩa là "bậc Hộ trì chúng sinh", "Tsang" là tên vùng Tsang, "Gya" từ một bộ tộc cao quý người Hán, còn "Re" là "Bậc Yogi áo vải". Đức Tsangpa Gyare hay Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ nhất được huyền ký tại nhiều Kinh điển, Mật điển. Trong Mật tụng Căn Bản Văn Thù Sư Lợi, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã huyền ký về sự xuất hiện của Ngài:

 “Hơn một ngàn năm sau khi ta Niết Bàn,

Khi nhân duyên cát tường hội đủ,

A La Hán Sonam Nyingpo

Sẽ thị hiện nơi miền đất tuyết

Trong gia đình quý tộc Trung Hoa,

Là bậc chân tăng sĩ đạo hạnh

Pháp danh “Tỳ kheo Yeshe Dorje”.

Ngài xả bỏ đam mê trần lụy,

Trọn đời tu hành cho chính pháp.

Chứng ngộ tâm bản lai bất nhị

Dìu dắt cứu độ chúng hữu tình,

Đưa họ tới bến bờ giải thoát”.

Về mặt Bản môn, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa là hóa thân từ bi của Đức Quán Âm cùng hết thảy Như Lai không phân biệt. Trước khi hiện thân là Pháp Vương Gyalwang Drukpa, Ngài đã chuyển thế thị hiện trong nhiều thân tướng khác như hóa thân của Đại Thành tựu giả Naropa, hóa thân của Đức Gampopa là vị Đại đệ tử của Đức Milarepa, hóa thân của bậc nắm giữ Truyền thừa Kalachakra được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni huyền ký là Đức Vua Kulika Pundarika xứ Shambala tại Ấn Độ, hóa thân của Đức Vua vĩ đại Songsten Gampo – vị vua Phật tử đầu tiên tại Tây Tạng, cùng nhiều đời hóa thân khác đều là các Đại thành tựu giả.

Kể từ thời điểm Đức Tsangpa Gyare thành tựu Đại giác ngộ rồi sáng lập Truyền thừa Drukpa, với tâm nguyện lợi ích chúng sinh, phụng sự nhân loại và vũ trụ, Ngài đã liên tục hóa thân chuyển thế 12 lần:

Đức Pháp VươngGyalwang Drukpa đời thứ I Drogon Tsangpa Gyare Yeshe Dorje (1161 - 1211)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ II, Gyalwang Kunga Paljor (1428 - 1476)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ III, Jamyang Choekyi Dragpa (1478 - 1523)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ IV, Kunkhyen Pema Karpo, (1527 - 1592)

Đức Pháp Vương GyalwangDrukpa đời thứ V với hai hóa thân là Đức Pagsam Wangpo  (1593 - 1653) và Đức Shabdrung Ngawang Namgyal (1594-1651).

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ VI Gyalwang Mipham Wangpo (1654 - 1717)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ VII Gyalwang Thrinley Shingta (1718 - 1766)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ VIII Kunzig Mipham Chokyi Nangwa (1768 - 1822)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ IX Gyalwang Mipham Chokyi Gyatsho  (1823 - 1883)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ X Gyalwang Mipham Chokyi Wangpo (1884 - 1930)

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XI Gyalwang Tenzin Khenrab Gelek Wangpo  (1931 - 1960), và

Đức Pháp Vương hiện đời Pháp danh Gyalwang Drukpa Jigme Pema Wangchen hay Vô úy Liên hoa Quyền lực Tự tại..

Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa hiện đời đản sinh năm 1963 trong một gia đình hành giả Kim Cương Thừa có dòng dõi tôn quý. Phụ thân Ngài là Đức Kyabje Bairo Rinpoche, hiện thân của Đức Phật Tỳ Lư Giá Na và là hóa thân đời thứ 36 của Đại dịch giả trứ danh Vairochana  - một đại đệ tử của Thượng sư Liên Hoa Sinh. Thân mẫu Ngài là Bà Mayum-la Konchok Pema thuộc dòng dõi Thượng sư Nyadak Nyang vĩ đại của Truyền thừa Nyingmapa. Địa điểm Ngài đản sinh là thánh địa hồ Liên Hoa “Tso Pema” ở phía Bắc Ấn Độ, chính là nơi Đức Liên Hoa Sinh từng hiện sinh vào thế kỷ VIII. Thời điểm Ngài chào đời là ngày đản sinh của Đức Liên Hoa Sinh, cũng là lúc Tăng đoàn đang trình diễn vũ điệu Kim cương mô tả tám hóa thân của Đức Liên Hoa Sinh. Trong thời gian Thân mẫu Ngài hoài thai, nhiều người nghe thấy tiếng trì tụng tâm chú A Di Đà vang lên từ bụng bà. Vô số điềm lành vi diệu xuất hiện vào thời điểm Đức Pháp Vương chào đời như sấm sét, mưa bão nổi lên, tuyết rơi rồi cầu vồng tuyệt đẹp cùng vô số điềm cát tường tối thắng khác xuất hiện để chào đón sự tái thế của bậc Thánh nhân giác ngộ.

Năm lên ba tuổi, Ngài được chính thức ấn chứng là chân hóa thân của Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XI và được đón về giáo dưỡng tại Đại tự viện của Truyền thừa Drukpa ở Darjeeling, Ấn Độ. Sau quá trình tu học nghiêm cẩn dành cho bậc hóa thân đứng đầu một truyền thống Phật giáo lớn, Ngài chính thức trở lại dẫn dắt Truyền thừa Giác ngộ với sứ mệnh phụng sự nhân loại và vũ trụ bước vào Thiên niên kỷ mới.

Đức Pháp Vương Đức Gyalwang Drukpa cũng chính là bậc nắm giữ “Sáu sức Trang Hoàng của Naropa”, Pháp bảo tối thắng tượng trưng cho sự chứng đắc Mật thừa Tantra vô song.  Các xá lợi quý giá bao gồm: Sáu Trang Hoàng bằng xương và bình quán đỉnh mà Đức Naropa đã từng sử dụng khi tu trì Kim Cương Thừa, chiếc vương miện đen rực rỡ tết bằng tóc cúng dường của một trăm ngàn vị Dakini tới Ngài và các bảo báu được trang trí vào thêm sau đó.  Những ai có phúc duyên chiêm ngưỡng các xá lợi này sẽ được ban thần lực gia trì kiến tức giải thoát.

Sáu sức Trang hoàng được Đức Naropa truyền xuống cho Đệ tử chân truyền là Đức Marpa, bậc Đại Thành tựu giả có công hạnh phục hưng và hoằng dương Phật pháp tại Tây Tạng. Kế đến, Các Trang Hoàng được Đức Marpa truyền xuống cho dòng Ngokten cho đến khi vị tổ sư thứ VII của dòng Ngokten hạnh ngộ hóa thân của Đức Naropa là Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ II đã cúng dường cho Đức Pháp Vương Pháp bảo linh thiêng này. Kể từ đó, sau quá trình tu học nghiêm mật và thành tựu thực chứng tối thắng, các đời hóa thân chuyển thế của Đức Pháp Vương đều từng khoác lên mình Sáu Sức Trang Hoàng vô cùng trân quý. Trong hiện đời, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ XII  từng ba lần khoác lên mình Sáu Sức Trang Hoàng của Naropa, mỗi lần cách nhau 12 năm,

lần đầu vào năm 1980, lần thứ hai năm 1992 và lần thứ 3 vào năm 2004 tại cung điện Naropa, tự viện Hemis, Ladakh.

Các Pháp hội vô cùng hy hữu này thu hút hàng chục vạn người từ khắp vùng miền Himalaya và trên toàn thế giới tới vân tập để thụ nhận ân phước gia trì từ bậc chân hóa thân của Đức Quan Âm và Đức Naropa.  Khi tất cả bảo báu được khoác lên mình Đức Pháp Vương, vô số điềm lành thù thắng tức thì xuất hiện. Những năng lực tâm linh kỳ diệu tỏa ra từ các sức Trang hoàng hòa hợp bất khả phân, mang lại kiến tức giải thoát cho những đệ tử tín tâm và ban gia trì cho cho đại chúng có phúc duyên chiêm bái.

Lịch sử 12 đời hóa thân của Đức Pháp Vương là tấm gương ngời sáng về những công hạnh cứu độ chúng sinh vì mỗi phút giây trong những lần hiện thân chốn nhân gian, Ngài đều dành trọn vẹn cuộc đời mình vìcuộc sống an bình, từ bi và trí tuệ cho tất cả chúng sinh. Điều linh thiêng, diệu kỳ nhất là khi Đức Pháp Vương đời thứ I thị tịch để hóa thân chuyển thế sang đời kếtiếp,sau lễ Trà tỳ nhục thân Ngài, người ta đã chứng kiến vô số điềm cát tường như cầu vồng, mưa hoa, thiên nhạc, hương thơm lan tỏa khắp không gian và Ngài đã để lại nguyên vẹn xá lợi tim, lưỡi, đôi mắt,đặc biệt nơi đầu cốt của Ngài xuất hiện hình thánh tướng Đức Quan Âm,Văn Thù và Kim Cương Thủ, 21 đốt sống lưng của Ngài thành 21 xá lợi thánh tượng Đức Quan Âm như: Quan Âm nghìn tay, Quan Âm 4 tay, Quan Âm 2 tay…

Các đời hóa thân chuyển thế tiếp theo đó của Ngài sau khi thị tịch đều để lại xá lợi thánh tượng Đức Quan Âm với nhiều pháp tướng khác nhau. Nhiều xá lợi Pháp tướng Quan Âm của Đức Pháp Vương còn được trì giữ, thờ phụngcho đến ngày nay tại vô số tự viện và địa điểm khác nhau trên dãy Himalaya là minh chứng rõ ràng Ngài là hiện thân chân thật của đức Quan Âm và nêu biểu cho sự chứng ngộ tâm linh trí tuệ đại bi vô lượng.

Trước thành tựu tâm linh siêu việt tôn quý như vậy,người dân trên dãy Himalaya đã có lòng xác tín từ ngàn năm nay rằng Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa chính là hiện thân chân thực của Đức Quan Âm thị hiện chốn nhân gian nhằm cứu khổ cứu nạn, xua tan màn đêm trường vô minh đau khổ, để chỉ bày cho chúng ta tinh túy cuộc sống, đánh thức tình yêu thương, lòng từ bi, trí tuệ nơi mỗi người và đem lại hạnh phúc chân thật, an bình cho khắp pháp giới chúng sinh:

Nguyện chúng sinh đắc nhân an lạc

Sống yên vui từng chớp sát na

Nguyện chúng sinh muôn khổ lìa xa

Thoát vòng tục lụy phiền hà thế gian

Nguyện chúng sinh dứt khổ, hân hoan

Vô lượng hỷ lạc, từ quang sáng ngời

Nguyện chúng sinh an trụ không dời

Trong Bình đẳng xả muôn đời vô ưu.

 

Truyền thừa Drukpa được hoằng truyền không gián đoạn từ 1.000 năm nay đã để lại cho nhân loại một di sản tâm linh vô cùng vĩ đại, nổi tiếng với sự thực hành thanh tịnh, đức chân tu khổ hạnh cùng những pháp tu trì thâm diệu thành tựu Phật quả ngay trong một đời như “Sáu Pháp Yoga của Naropa”, giáo pháp khẩu truyền tâm yếu “Đại Thủ Ấn”, những giáo pháp thiền định đặc biệt như “Sáu Pháp Vị Bình Đẳng”, “Bảy Pháp Duyên Khởi”.

Hàng ngàn Đại hành giả Yogi Truyền thừa Drukpa đã trải qua quá trình tu hành khổ luyện và đạt được thành tựu thiền định Đại Thủ Ấn Mahamudra với trí tuệ tối thắng và pháp lực thần thông không thể nghĩ bàn. Những bậc Thành tựu siêu việt đã chứng minh rằng bản chất của sự vật hiện tượng chỉ là hư vô, bóng ảnh bởi các pháp lực thần thông ấy đều dựa trên nguyên lý cơ bản của “vạn pháp duy tâm tạo”.

Truyền thừa Drukpa kể từ thời của Đức Pháp Vương đời thứ I Drogon Tsangpa Gyare đã được hoằng truyền vô cùng mạnh mẽ. Đức Pháp Vương đời thứ I từng có vô số đệ tử và sinh thời Ngài từng ba lần yêu cầu các học trò mình phân chia đi khắp chốn để hoằng dương chính pháp. Mỗi lần như vậy, những Đại đệ tử xuất chúng đã thành tựu thân cầu vồng lên cõi Thiên, một số xuống cõi Rồng và một số tới các cõi nhân gian Các đệ tử bậc trung đến các vùng linh địa Oddiyana, Shambhala, Srilanka, Serling hay “Đảo Vàng” (Sumatra), Sangling hay “Đảo Đồng” (Java) và những miền xa xôi khác. Số đệ tử còn lại trải khắp những miền đất từ Jalandhara ở Ấn Độ tới những miền địa đầu Trung Hoa. Nhờ vậy mà nền di sản tâm linh của Truyền thừa đã nhanh chóng phát triển mạnh mẽ và phân thành nhiều nhánh.

Tương truyền,  khu vực ảnh hưởng của Truyền thừa trong thời kỳ cực thịnh rộng lớn đến nỗi “chim linh thứu sải cánh bay mười tám ngày không ngừng nghỉ cũng chưa hết địa phận các trụ xứ”. Trong đó, dòng Thượng Drukpa ở phía Tây miền núi tuyết thu hút chúng đệ tử nhiều như hằng hà sa số sao trên trời, dòng Hạ Drukpa ở miền Đông núi tuyết chúng đệ tử nhiều như cây cối sống trên mặt đất,

dòng Trung Drukpa ở miền Trung núi tuyết cũng có vô số đệ tử, trong đó chỉ riêng những bậc hành giả đạt thành tựu tâm linh thượng thừa được tôn vinh là Bảo Cái Tối Thắng đã có tới hơn 2.800 vị. Ngạn ngữ nhân gian vùng Núi tuyết còn lưu truyền câu kệ sau:

“Một nửa người dân là đệ tử Truyền thừa Drukpa,

Một nửa đệ tử Truyền thừa Drukpa là hành giả Yogi,

Một nửa hành giả Yogi là Đại Thành tựu giả”

Truyền thừa không gián đoạn đã góp phần làm cho Phật pháp được phát triển ở nhiều nơi, đặc biệt có tầm ảnh hưởng sâu rộng tại Nepal, Ấn Độ, Ladakh, Bhutan và nhiều vùng miền trên dãy Himalaya. Tại2484[lHYPERLINK "%22%5Bl1%5D"1HYPERLINK "%22%5Bl1%5D"]  Vương quốc Phật giáo Bhutan, nơi đến nay vẫn được coi là cõi Tịnh độ nhân gian và rất nổi tiếng với thước đo phát triển được định nghĩa theo Tổng Giá trị Hạnh phúc quốc gia, Truyền thừa Drukpa đã có một dấu ấn lịch sử và di sản tâm linh vô cùng đặc biệt. Mối liên hệ này đến từ nỗ lực hoằng dương của các Đại Thượng sư Truyền thừa trong quá khứ như Ngài Phachok Druggom Shipo, Ngài Gyalwa Lorepa, các Ngài Jamyang Kunga Senge, Thrulshik Namkhai Naljor, Gyalwang Je, Ngawang Choegyal, Drukpa Kunleg, Mipham Choegyal và Mipham Tenpai Nyima.

Đặc biệt, theo lời huyền ký của chính Ngài, Đức Pháp Vương Drukpa đời thứ IV Kunkhyen Pema Karpo (1527-1592) đã chuyển thế thành hai hóa thân là Đức Padsam Wangpo (1593 - 1653) và Đức Shabdrung Ngawang Namgyal (1594-1651).

Theo lời tiên tri của các Bản tôn thiền định, Đức Shabdrung Ngawang Namgyal đã rời trụ xứ Ranglung tới hoằng pháp tại Bhutan vào năm 1616 và khoảng ba mươi năm sau, Ngài đã thống nhất và xác lập chủ quyền dân tộc cùng bản sắc văn hóa lâu dài cho Vương quốc Bhutan, đồng thời trở thành vị lãnh tụ tâm linh và chính trị của Vương quốc này.

Ngài đặt lại tên cho Vương quốc là Druk và người dân là Drukpa để cho thấy tầm ảnh hưởng của Truyền thừa tại đây. Để duy trì hệ thống quản trị tự viện quốc gia, Đức Shabdrung Ngawang Namgyal cũng đã thiết lập ngôi vị Giáo chủ (“Je Khenpo”)  qua việc tấn phong Đức Pekar Jungne là Đức Je Khenpo đời thứ I.

Các bậc Giáo chủ Je Khenpo cùng Đức Vua Bhutan từ đó về sau là những bậc lãnh đạo tâm linh tối thượng của Vương quốc Bhutan.

Như thế, từ khi lập nước đến nay, Truyền thừa Drukpa luôn hưng thịnh và là Quốc giáo của Vương quốc này. Cùng với Bhutan còn có những tiểu quốc như xứ Ladakh là nơi từ hơn bốn thế kỷ nay luôn duy trì dấu ấn và sự phát triển mạnh mẽ của Truyền thừa Drukpa.

Từ đầu thế kỷ 17, Đức Taktsang Rinpoche đời thứ I, được biết đến rộng khắp với hồng danh Taktsang Shambunath một đại đệ tử của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đời thứ V Pagsam Wangpo, đã nhiều lần được nhà vua và hoàng gia Ladakh thỉnh cầu tới hoằng dương và ban sự hướng đạo tâm linh cho toàn thể chúng dân nơi đây. Sinh thời, Ngài đã kiến lập Tăng đoàn, hướng đạo hoàng gia và các quan trong triều đình cùng vô số Phật tử tín tâm trên con đường đạo chân chính. Từ đó, các đời hóa thân tiếp theo của Đức Taktsang Rinpoche đều trở thành các bậc Thượng sư tôn quý của các đời vua xứ Ladakh. 

Lịch sử Phật giáo Kim Cương Thừa còn ghi lại vào thời kỳ Phật pháp bị suy vi do ngoại đạo tàn phá, các bậc Thành tựu giả Truyền thừa Drukpa đã phô diễn vô số đại thần thông bất khả tư nghì, điều phục ngoại đạo và giáo hoá chúng sinh bằng hành vi, thái độ, cung cách phi thường cùng những phương tiện thiện xảo giúp chuyển hóa sâu sắc thế giới nội tâm, qua đó đánh đổ hủ tục và tập khí huân tập lâu đời, đồng thời tạo luồng sinh khí năng động, tích cực cho xã hội.

Trải qua 1.000 năm cùng bao thăng trầm và vô thường lịch sử, thậm chí vào thời mạt pháp ngày nay, Truyền thừa Drukpa vẫn thịnh vượng với hệ thống khoảng một ngàn tự viện tại các vùng miền trên dãy Himalaya như Ladakh, Nam Ấn, Tây Bengal, Lahaul, Kinnaur, Nepal, Bhutan, Sikkim...Nương ân đức của Đức Pháp Vương hiện đời, Truyền thừa còn được phát triển rộng khắp thế giới với rất nhiều trung tâm Phật pháp và hàng triệu Phật tử thực hành. Các Trung tâm Drukpa được thiết lập tại Châu Á (Hồng Kông, Đài Loan, Malaysia, Singapore, Việt Nam), Châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Monaco, Thụy Sĩ, Tây Ban Nha, Ba Lan), Châu Mỹ La tinh (Argentina, Peru, Mexico) và các nhóm thực hành tại Bắc Mỹ...

  Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa hiện đời đạt được những thành tựu lớn lao, với công hạnh hoằng dương mạnh mẽ Truyền thừa Drukpa trên toàn cầu vì lợi ích vô lượng hữu tình,  đặc biệt trong sứ mệnh tìm kiếm, ấn chứng công nhận và giáo dưỡng  các bậc hóa thân chuyển thế của chư Thượng sư Truyền thừa.Trong truyền thống Kim Cương Thừa có nhiều cách để tìm kiếm hoá thân chuyển thế (còn gọi là “Tulku’’) của các bậc Thượng sư giác ngộ, chẳng hạn như thông qua lời huyền ký của Phật trong kinh điển, hoặc linh kiến thiền định của các bậc thượng sư giác ngộ, hoặc nhờ vào những lời huyền ký do hoá thân đời trước của các Ngài để lại trước khi thị hiện viên tịch, hoặc qua những lời di huấn do các Ngài truyền cho những đệ tử tâm huyết. Cách thức có thể khác nhau nhưng có một điểm chung là lai lịch và vị thế tâm linh của các bậc Tulku đều phải được ấn chứng xác quyết bởi một Đại Thượng sư chứng ngộ.  Là bậc toàn tri tôn quý đứng đầu Truyền thừa tối thượng, Đức Pháp Vương thường nhận được lời thỉnh cầu tìm kiếm và xác nhận, đăng quang, ấn chứng hóa thân tái sinh các bậc Thượng sư quá cố. Ngài luôn thực hiện sứ mệnh quan trọng này với trách nhiệm và sự chặt chẽ, nghiêm cẩn nhất bởi các bậc hóa thân chuyển thế sẽ gánh vác những trọng trách lớn lao trong việc giáo hóa chúng sinh và hoằng truyền giáo pháp của Đức Như Lai.

Là những Đại Bồ tát tối thắng đã đạt đến con đường kiến đạo, các Ngài thị hiện trở lại thế gian không phải do nghiệp lực hay các xúc cảm ô trược mà bằng Bồ đề tâm nguyện cứu độ hết thảy chúng sinh trong biển khổ luân hồi và sức mạnh vi diệu của từ bi trí tuệ. Với sức mạnh của năng lực vị tha, các Ngài hoàn toàn làm chủ được tiến trình chết, trạng thái trung gian và việc tái sinh quyết định lựa chọn nơi chốn, ngày giờ chào đời cũng như cha mẹ tương lai để có điều kiện thuận duyên cho sứ mệnh phụng sự nhân loại và vũ trụ.

Việc tìm ra, ấn chứng và đăng quang các bậc hóa thân Tulku đặc biệt có ý nghĩa trong thời Mạt pháp ngày nay, khi còn rất nhiều người không tin vào sự tái sinh và thậm chí còn không tin vào quy luật luân hồi, nhân quả nghiệp báo. Nếu không hiểu biết và không tin vào Nghiệp, thế giới này sẽ trở nên hỗn loạn bởi lẽ người ta sẽ không tin rằng thiện nghiệp sẽ mang lại quả báo tốt lành và ác nghiệp sẽ đưa đến quả báo khổ đau.  Trong bối cảnh này, sự ấn chứng, tấn phong một bậc giác ngộ không chỉ minh chứng cho thế giới thấy các Ngài đã hóa thân chuyển thế, mà còn là bằng chứng vững chắc nhất cho thấy giá trị và uy lực của sự thực hành Phật pháp và nhắc nhở mỗi người trong chúng ta về quy luật nghiệp nhân quả, đồng thời khích lệ rằng nếu biết đến con đường thực hành tâm linh thì chính chúng ta cũng có khả năng chứng đạt giác ngộ giải thoát. Trong hiện đời, Đức Pháp Vương đã tìm thấy và ấn chứng rất nhiều các bậc hóa thân chuyển thế chính yếu của Truyền thừa Drukpa như:

Ngài Kyabje Drukpa Yongdzin Rinpoche

Ngài Kyabje Gyalwa Lorepa

Ngài Kyabje Drukpa Choegon Rinpoche Tenzin Chokyi Gyatso

Ngài Kyabje Adeu Rinpoche

Ngài Gyalwa Dokhampa (Nhiếp Chính Vương Kyabje Khamtrul    Rinpoche đời thứ IX Jigme Pema Nyinjadh)

Ngài Kyabje Thuksey Rinpoche đời thứ II Jigme Mipham Shedrub

Ngài Kyabje Palga Rinpoche

Ngài Kyabje Langna Rinpoche

Ngài Kyabje Pekar Rinpoche

Ngài Kyabje Ngagdra Rinpoche

Ngài Kyabje Sengdrak Rinpoche

Ngài Kyabje Khamdrag Rinpoche

Ngài Kyabje Kunga Rinpoche

Ngài Kyabje Lhakhang Tulku

Ngài Kyabje Niurang Rinpoche

Ngài Kyabje Ah Dzong Rinpoche

Ngài Kyabje Saktul Rinpoche

Ngài Tulku Chhoezang LhamoNgài Tulku Sangye Dorje

Ngài Tulku Thabkhe

Ngài Tulku Jigmed Chhoekyi Gyatsho Chhe Chhog

Ngài Tulku Jigmed Palden Dorje

Ngài Jigmed Jangchhub Dorje

Ngài Jigmed Dechhen Wangchhug

Ngài Jigmed Mipham Chhoegyel

và rất nhiều các bậc Rinpoche và Tulku hoá thân chuyển thế khác.

Gần đây nhất, qua những đại lễ quan trọng như Đại hội Drukpa Thường niên, Đức Pháp Vương đã cử hành lễ đăng quang quán đỉnh cho những bậc hóa thân chuyển thế Truyền thừa. Lễ tấn phong và đăng quang là cơ duyên hy hữu cho đông đảo thiện tri thức và đệ tử Truyền thừa được cung đón sự giáng lâm của các bậc Thượng sư giác ngộ. Nghi lễ Quán đỉnh này biểu trưng cho sự thừa nhận những phẩm hạnh giác ngộ trong hình tướng con người  và ấn chứng về khả năng mỗi người đều có thể đạt tới cảnh giới toàn hảo siêu việt luân hồi khổ não.

Vì Truyền thừa Drukpa là truyền thừa thực hành, đem Phật pháp áp dụng vào cuộc sống hàng ngày thông qua những hành động thiết thực của tình yêu thương và trí tuệ hiểu biết nên mỗi giây phút trong hiện đời, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa đều mang tâm nguyện dấn thân hành động góp phần giúp thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Ngài chính là tấm gương thiện hạnh mẫu mực,khuyến khích và truyền cảm hứng đến đông đảo mọi người. Năm 2007, Ngài sáng lập phong trào từ  thiện quốc tế Live to Love (“Sống để Yêu thương”), đến nay đã được mở rộng trên phạm vi 16 quốc gia, tập trung vào những dự án thiết thực như phát triển giáo dục, cứu trợ y tế, bảo vệ môi trường, bảo tồn di sản văn hóa và bình đẳng giới.   Mục đích của “Sống  để Yêu thương”  là nhằm khuyến khích mọi người kết nối với nhau, quan tâm lẫn nhau hơn là chỉ tu tập trong sự tiện nghi cá nhân. Ngài dạy: “Lòng từ bi cần được trưởng dưỡng, nhưng chính tình yêu thương thể hiện qua hành động cũng rất cần thiết để hỗ trợ tăng trưởng lòng từ”. Vâng theo lời chỉ dạy của Đức Pháp Vương, các đệ tử của Ngài tích cực tham gia các hoạt động thiện hạnh qua những dự án như tham gia dạy và quản lý trường học Druk Bạch Liên, tham gia quản lý Phòng khám của trường, tổ chức chương trình chữa mắt cho người nghèo, phòng trị và chữa bỏng cho người dân và trẻ em địa phương, thực hiện các chương trình cứu trợ nhân đạo cho những vùng gặp thiên tai, tham gia trồng cây, bộ hành nhặt rác và giúp nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường của người dân, thực hiện “Nói Không” với đồ nhựa nhằm bảo vệ môi trường.

Dưới sự hướng đạo của Đức Pháp Vương, các hoạt động và sáng kiến Live to Love ngày càng nhận được sự hưởng ứng hỗ trợ tích cực từ cộng đồng quốc tế cũng như thu hút nhiều tình nguyện viên bao gồm cả những người không theo Đạo Phật.

Trong mười năm qua, Đức Pháp Vương cũng liên tục phát động và dẫn đầu những chuyến bộ hành thường niên kéo dài nhiều tháng xuyên qua khắp các vùng miền trên rặng Himalaya hoặc các tỉnh thành khác nhau của Ấn Độ, Nepal…nhằm khơi gợi, kêu gọi ý thức cộng đồng bảo tồn di sản văn hóa vùng Himalaya và gìn giữ môi trường vì một thế giới xanh tươi, hòa bình và an lạc.

Trong số các dự án lớn nhằm nhằm góp phầnbảo tồn di sản văn hóa tâm linh Kim Cương Thừa của Ngài hiện còn có dự án xây dựng trùng tu các đại tự viện ở Sikkim và Tự viên Hemis ở Laddakh. Bậc đứng đầu Truyền thừa của các thành tựu giả Yogi luôn tâm nguyện mang lại cơ hội bình đẳng cho các nữ hành giả trong đời sống và trong việc thực hành giáo pháp. Đức Pháp Vương thường chia sẻ quan kiến: “Giác ngộ không phân biệt giới tính, từ bi không phân biệt giới tính, trí tuệ không phân biệt giới tính,vì về bản lai, chúng ta đều là Phật” và “Tất cả mọi người, bất kể là nam hay nữ đều có tiềm năng và có toàn quyền chứng đạt giác ngộ cứu kính.”

Ngài đã thực hiện rất nhiều dự án với tâm nguyện mang lại quyền bình đẳng cho nữ hành giả không chỉ trong việc thụ nhận, tu tập giáo lý căn bản cũng như cao cấp, mà còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội.

Đức Pháp Vương cũng đưa ra sáng kiến và hỗ trợ tích cực cho công tác tổ chức Hội đồng Drukpa Thường niên, nơi vân tập của chư Thượng sư và đệ tử Truyền thừa Drukpa và cũng là diễn đàn để mọi người chung sức đồng lòng vận dụng các năng lực chữa lành của Đạo Phật góp phần giải quyết những vấn đề khủng hoảng của xã hội hiện đại.

Trong suốt 30 năm qua, với tâm nguyện đem tình yêu thương trong hành động vì một thế giới hòa bình, hòa hợp và an lạc, Đức Pháp Vương thường du hóa chia sẻ thông điệp Từ bi Trí tuệ của Đức Phật và khuyến khích thực hành thiện hạnh tại nhiều nơi. Những nỗ lực không mệt mỏi vì hạnh phúc an sinh và bảo vệ môi trường của Ngài đã được nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế vinh danh qua các giải thưởng tôn quý như: cúp “Anh hùng xanh”, giải “Thành tựu trọn đời” của Chính phủ Ấn Độ. Ngài cũng được Thái tử Charles của Vương quốc Anh và Ban tổ chức Giải thưởng Trái đất thỉnh mời tham gia Ủy ban Giám khảo của giải thưởng cao quý này. Tháng 09/2010, Đức Pháp Vương được Liên Hiệp Quốc trao tặng Kỷ niệm chương “Vì Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ”, tri ân những tổ chức cá nhân có cống hiến quan trọng cho sự nghiệp Phát triển Thiên niên kỷ trên phạm vi toàn cầu. Tháng 9/2013, Liên Hiệp Quốc tiếp tục trao tặng Ngài giải thưởng “South - South Awards” và tôn vinh Ngài với danh hiệu “Bậc Bảo Hộ của vùng Himalaya”.

Theo Nguyễn Quang Thiều - VanVN.net

 

 

 

 

Các bài mới
Các bài đã đăng