Văn nghệ trong nước
Tiễn biệt thi sĩ "Lá Diêu Bông" về “Bên kia sông Đuống”
16:09 | 06/05/2010
Hoàng Cầm, nhà thơ của Lá Diêu Bông, Bên kia sông Đuống, Mưa Thuận Thành, của kịch Kiều Loan và Hận Nam Quan đã qua đời sáng nay 6-5-2010, thọ 88 tuổi.
Tiễn biệt thi sĩ
Nhà thơ Hoàng Cầm - Ảnh: Tư liệu

Được biết đến như một nhà thơ của Kinh Bắc, tên khai sinh của Hoàng Cầm - Bùi Tằng Việt cũng là tên ghép của 2 địa danh Phúc Tằng và Việt Yên (Bắc Giang). Ông sinh ngày 22-2-1922 tại Thuận Thành - Bắc Ninh, học tú tài tại Hà Nội và bắt đầu tham gia văn đàn vào năm 1940 bằng những tác phẩm dịch từ tiếng Pháp cho Tân Dân xã của Vũ Đình Long.

Các tác phẩm chính của Hoàng Cầm
Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine 1940)
Thoi mộng (truyện vừa, 1941)
Kiều Loan (kịch thơ, 1945)
Men đá vàng (truyện thơ, 1989)
Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc, 1993)
Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1993)
Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994)
99 tình khúc (tập thơ tình, 1955)

Vở kịch thơ nổi tiếng đầu tiên của ông Hận Nam Quan cũng ra đời trong khoảng thời gian này (1942). Năm 1945, ông thành lập kịch Đông Phương và đi lưu diễn nhiều nơi trên đất Bắc.

Vở kịch thơ Kiều Loan của ông cũng ra đời trong thời kỳ này, nhưng chỉ diễn được có một đêm thì phải ngừng lại do tình hình chiến sự căng thẳng trước ngày Toàn quốc kháng chiến, ông lên chiến khu và tham gia thành lập đoàn Văn công quân đội năm 1997. Trong suốt kháng chiến, ông nổi tiếng với vai trò một trưởng đoàn văn công, đi biểu diễn phục vụ chiến ssĩ khắp các chiến trường phía Bắc.

Từ 1958 đến khoảng 1995 ông chuyên tâm làm thơ và những tập thơ hay nhất của ông ra đời trong giai đoạn này: Men đá vàng, Bên kia sông Đuống, Về Kinh Bắc, Lá Diêu bông…

Thơ ông hấp dẫn các thế hệ người đọc khác nhau, vì ngoài những tìm tòi cách tân về nghệ thuật, Hoàng Cầm vẫn gìn giữ cho riêng mình một vốn ngôn ngữ và hình ảnh đặc trưng Kinh Bắc, độc đáo, tài hoa. Có những câu thơ của ông, dù không phải thơ tình, vẫn làm say đắm bao nhiêu trái tim người Việt.

Từ khoảng 1993, thơ ông được in nhiều và liên tục được tái bản do nhu cầu tìm đọc của công chúng. Năm 2007, ông nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

Lá diêu bông

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ

Chị bảo
Đứa nào tìm được Lá Diêu bông
Từ nay ta gọi là chồng

Hai ngày Em tìm thấy Lá
Chị chau mày
Đâu phải Lá Diêu bông

Mùa đông sau Em tìm thấy Lá
Chị lắc đầu
trông nắng vãn bên sông

Ngày cưới Chị
Em tìm thấy Lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim

Chị ba con
Em tìm thấy Lá
Xòe tay phủ mặt Chị không nhìn

Từ thuở ấy
Em cầm chiếc Lá
đi đầu non cuối bể
Gió quê vi vút gọi
Diêu bông hời...
...ới Diêu bông...!



Cây tam cúc

Cỗ bài tam cúc mép cong cong
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ
Chị gọi đôi cây
trầu cay má đỏ
kết xe hồng đưa Chị đến quê Em

Nghé cây bài tìm hơi tóc ấm
Em đừng lớn nữa Chị đừng đi
Tướng sĩ đỏ đen chui sấp ngửa
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì

Đứa được
chinh chuyền xủng xoẻng
Đứa thua
đáo gỡ ngoài thềm
Em đi đêm tướng điều sĩ đỏ
đổi xe hồng đưa Chị đến quê Em

Năm sau giặc giã
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
thả tịnh vàng cưới Chị
võng mây trôi


Em đứng nhìn theo Em gọi đôi


Hoàng Cầm


                                                                                                Theo TTO / Thivien.net







Các bài mới
Các bài đã đăng