Văn nghệ trong nước
Tên gọi Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử
14:29 | 13/07/2010
LTS: Chỉ còn chưa đầy 3 tháng nữa, Hà Nội sẽ tưng bừng đón chào đại lễ 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Tên gọi Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử
Một góc Hà Nội
Cùng hòa vào không khí chung chào mừng ngày lễ trọng đại này, từ số này, trang Hà Nội sẽ mở chuyên mục "Thăng Long - Hà Nội: Ngàn năm văn hiến" với mong muốn đem lại cho độc giả có thể là những góc nhìn mới mẻ về một Thăng Long - Hà Nội cổ xưa, trầm mặc, cũng có thể là những cái nhìn bao quát, toàn diện hơn về một vấn đề xưa cũ của mảnh đất nghìn năm văn hiến.
 
Chuyên mục không chỉ là nơi đăng tải những bài viết của các nhà lịch sử, các chuyên gia nghiên cứu về Hà Nội, những nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn am tường mảnh đất thủ đô, mà còn là diễn đàn để các độc giả yêu quý Hà Nội gửi gắm, thể hiện tình yêu Hà Nội của mình vào những trang viết.

Những bài vở cho chuyên mục có thể gửi về Ban Thời sự (Báo Lao Động) theo địa chỉ 167/15 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội hoặc gửi qua địa chỉ email vukieuminh@gmail.com. Xin cảm ơn sự cộng tác của các độc giả. Trong số đầu tiên, chúng tôi xin gửi tới quý vị độc giả một vấn đề xưa cũ của Hà Nội bằng cái nhìn xuyên suốt lịch sử hình thành, phát triển thủ đô về một khía cạnh: Tên gọi của Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử.

Thăng Long-Hà Nội là kinh đô lâu đời nhất trong lịch sử Việt Nam. Trước khi trở thành kinh đô của nước Đại Việt dưới triều Lý (1010), mảnh đất địa linh nhân kiệt này đã từng là trọng trấn của phong kiến phương Bắc (nhà Tùy 581-618, nhà Đường 618-907). Từ khi hình thành cho đến nay, Thăng Long- Hà Nội có nhiều tên gọi khác nhau được chép trong sử sách nhà nước Việt Nam.

Long Đỗ: Theo truyền thuyết, lúc Cao Biền nhà Đường vào năm 866 mới đắp thành Đại La, thấy thần nhân hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Do đó trong sử sách thường gọi Thăng Long là đất Long Đỗ.

Tống Bình: Tống Bình là tên trị sở của quân đô hộ phương Bắc thời Tuỳ (581-618), Đường (618 - 907). Trước đây, trị sở của chúng là ở vùng Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Tới đời Tuỳ chúng mới chuyển đến Tống Bình.

Đại La: Đại La hay Đại La thành nguyên là tên vòng thành ngoài cùng bao bọc lấy kinh đô. Theo kiến trúc xưa, kinh đô thường có “Tam trùng thành quách”: Trong cùng là Tử Cấm thành (tức bức thành màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Kinh thành và ngoài cùng là Đại La thành. Năm 866, Cao Biền bồi đắp thêm Ðại La thành rộng hơn và vững chãi hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La.

Thăng Long (rồng bay lên): Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết lý do hình thành tên gọi này như sau: “Mùa thu tháng 7 năm Canh Tuất (1010) Vua Lý Công Uẩn từ thành Hoa Lư, dời đô ra kinh phủ thành Đại La, tạm đỗ thuyền dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự, nhân đó đổi tên thành gọi là thành Thăng Long.

Đông Đô: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397) lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương) coi phủ đô hộ là Đông Đô”. Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, sử thần nhà Nguyễn chú thích: “Đông Đô tức Thăng Long, lúc ấy gọi Thanh Hoá là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô”.

Đông Quan: Đây là tên gọi Thăng Long do quan quân nhà Minh đặt ra với hàm nghĩa kỳ thị kinh đô của Việt Nam, chỉ được ví là “cửa quan phía đông” của nhà nước phong kiến Trung Hoa. Sử cũ cho biết, năm 1408, quân Minh đánh bại cha con Hồ Quý Ly đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên thành Đông Quan.

Đông Kinh: Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết sự ra đời của cái tên này như sau: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), vua (tức Lê Lợi - TM) từ điện tranh ở Bồ Đề vào đóng ở thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, dựng quốc hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh. Ngày 15, vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là thành Thăng Long. Vì Thanh Hoá có Tây Đô, cho nên gọi thành Thăng Long là Đông Kinh”.

Bắc Thành: Đời Tây Sơn (Nguyễn Huệ - Quang Trung 1787 - 1802 - TM) đóng đô ở Phú Xuân (tức Huế - TM) nên gọi Thăng Long là Bắc thành” (Nguyễn Vinh Phúc - Trần Huy Bá - Đường phố Hà Nội - H. 1979, tr12).

Thăng Long (thịnh vượng lên): Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1802, Gia Long quyết định đóng đô ở tại nơi cũ là Phú Xuân, không ra Thăng Long, cử Nguyễn Văn Thành làm Tổng trấn miền Bắc và đổi kinh thành Thăng Long làm trấn thành miền Bắc. Kinh thành đã chuyển làm trấn thành thì tên Thăng Long cũng cần phải đổi.

Nhưng vì tên Thăng Long đã có từ lâu đời, quen dùng trong nhân dân toàn quốc, nên Gia Long thấy không tiện bỏ đi ngay mà vẫn giữ tên Thăng Long, nhưng đổi chữ “long” là rồng thành chữ “long” là thịnh vượng, lấy cớ rằng rồng là tượng trưng cho nhà vua, nay vua không ở đây thì không được dùng chữ “long” là “rồng”. Việc thay đổi nói trên xảy ra năm 1805, sau đó Vua Gia Long còn hạ lệnh phá bỏ hoàng thành cũ, vì vua không đóng đô ở Thăng Long, mà hoàng thành Thăng Long lại lớn rộng quá.

Hà Nội: Sách Lịch sử thủ đô Hà Nội cho biết: “Năm 1831, Vua Minh Mạng đem kinh thành Thăng Long cũ hợp với mấy phủ huyện xung quanh như huyện Từ Liêm, phủ Ứng Hoà, phủ Lý Nhân và phủ Thường Tín lập thành tỉnh Hà Nội, lấy khu vực kinh thành Thăng Long cũ làm tỉnh lỵ của Hà Nội”. Từ đó tới nay, kinh thành nước Việt giữ nguyên tên Hà Nội.
Ngoài ra, Thăng Long – Hà Nội còn có một số tên không chính quy như Trường An (Tràng An), Phượng Thành (Phụng Thành), Long Biên, Long thành, Hà thành...

Theo Hải Phong (tổng hợp tư liệu lịch sử và Tạp chí Xưa và Nay) - LĐ






Các bài mới
Các bài đã đăng