Nửa ngày phơi nắng, phơi mưa ngoài đồng, đuổi nhau, lặn ngụp nước ao, dưới sông rồi trèo lấy tổ chim non, đổ nước vào hang dế... chơi trò nào, Phùng Quán cũng là đứa bé nhiệt tình, hăm hở và có sáng kiến nhất. Cái không khí náo nức của xóm làng những ngày đầu cách mạng, tiếng hô “đi đều bước” và nhịp trống rộn ràng của đội thiếu niên ca-lô nâu vàng rầm rập... “một hai một” đã làm cậu bé nôn nao! Phùng Quán trốn nhà, tìm đến một đơn vị Vệ quốc đoàn gặp chỉ huy xin đi đánh Pháp. Quán được nhận làm liên lạc của tiểu đoàn, sống trong doanh trại bộ đội. 17 tuổi, anh chính thức được phiên chế vào đơn vị chiến đấu. 18 tuổi, anh bắt đầu làm thơ, những câu thơ sôi sục tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, tràn ngập niềm tự hào về nước Cộng hoà trẻ tuổi. Các cấp chỉ huy ở đơn vị thấy Phùng Quán thông minh, ham học hỏi đã khuyến khích anh học văn hoá, có tờ báo nào là đưa cho anh đọc. Bài thơ đầu tiên, tôi đọc của Phùng Quán là bài thơ “Hôn” viết năm anh 22 tuổi: Khi người ta yêu nhau Hôn nhau trong say đắm Còn anh, anh yêu em Anh phải đi ra trận. Khẩu khí của lính, có mùi trận mạc, thoáng hơi hướng thơ Pê-tô-phi. Phùng Quán cùng lứa với tôi, hơn tôi một tuổi, nên đọc thơ bạn, tôi đều lấy lòng mình ra đo. Tôi gặp Phùng Quán năm 1956 ở Hà Nội - cái năm định mệnh đã đưa Phùng Quán ra khỏi phòng Văn nghệ quân đội khi ánh hào quang của tiểu thuyết Vượt Côn Đảo tắt dần. Chúng tôi dễ thân nhau vì cùng một cái “típ” người “Tinh anh phát tiết ra ngoài...”(Kiều), bồng bột, xốc nổi, yêu ghét hiện ra mặt, cả tin, dễ buồn, dễ vui... Tuổi trẻ có không biết bao nhiêu thói xấu, nhưng nếu Trời không “ban” cho những thói xấu đó thì chúng tôi làm sao có thể đến được với Thơ? Hồi đó, đọc mấy bài thơ dài của anh như: “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” (1954), Tôi tự hào chế độ nước tôi (1955), Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi (1955), lòng tôi nhiều khi run lên vì phấn khích: Bạn hãy vượt qua một vạn con sông một vạn trái đồi Thấy một xứ sở giang tay ôm biển lớn Việt Bắc, Trường Sơn, núi cao rừng rậm Đồng Tháp Mười mỏi cánh cò bay Lòng chảo Điện Biên vạn quân thù tan nát ở đây Đồn luỹ hôm qua xanh màu ruộng cấy Nước Việt Nam anh em ở đấy.. v.v... Càng lớn tuổi, lòng yêu thương những bài thơ ấy cứ giảm dần và sắp đến tuổi “cổ lai hy” thì lại có phần khó chịu vì hiểu ra thơ không phải như thế, thơ không được nói trực tiếp, không được nhiều lời, không được đao to, búa lớn, thơ nói chuyện này mà bắt người đọc phải nghĩ về chuyện kia, nói trời mây mà nói đến lòng người đang buồn thăm thẳm... Sau này, tôi biết khi trong bộ đội, Phùng Quán là tay độc tấu rất giỏi, sôi sục, lôi cuốn. Thời ấy tôi nghe nói chỉ có ba người độc tấu cừ: Thanh Tịnh, Hoàng Cầm, Phùng Quán. Ba bài thơ dài của anh thời ấy tôi thích đều đầy nhiệt huyết với đất nước, với nhân dân nhưng cũng đầy chất tấu. Trong chùm thơ viết theo kiểu ấy, tôi để riêng ra bài “Chống tham ô lãng phí”, vì đây là bài thơ bộc lộ tính cách và nhân cách Phùng Quán rõ nhất: anh không viết bằng mực nữa mà viết bằng máu của mình (tuy nó có hơi hướng Mai-a). Đất nước sau chiến tranh thiếu thốn trăm bề với “Những bà mẹ quấn giẻ rách/ Da đen như củi cháy giữa rừng” với “Hai mùa rồi lúa không có một bông/ Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ” với “Những em thơ còm cõi... Cơm thòm thèm độn cám và rau” với “chị em công nhân đổ thùng/ Run lẩy bẩy chui hầm xó tối”... thế mà: Về Định mà xem Đài xem lễ họ cao hứng dựng lên Nửa chừng bỏ dở Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió Mồ hôi máu đỏ mốc rêu. Hồi ấy, bậc 1 lương cán sự tốt nghiệp trung cấp là 36 đồng, giá trị của 11 triệu đồng lúc ấy theo mức lương bây giờ mà tính ra là hơn 1 tỷ. Người ta đổ đi không tiếc hơn một nghìn triệu đồng mồ hôi nước mắt của nhân dân! Càng về cuối, Phùng Quán như gầm lên: Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu Đảng đã phê bình trên báo Còn bao tên chưa ai biết ai hay Lớn bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo gầy... Chúng nảy nòi sinh sôi như dòi bọ Bài thơ đã cảnh báo một tai hoạ của đất nước, thế mà tiếc thay đến đầu thế kỷ 21 này, 45 năm sau Đảng Cộng sản trong công việc chỉnh đốn Đảng lại phải ráo riết kêu gọi “chống tham nhũng, lãng phí!”. Tham nhũng còn nặng hơn tham ô. Năm 1958, tôi dạy học ở Vĩnh Phúc, ngày dạy ở trường phổ thông, mỗi tuần bốn tối dạy bổ túc văn hoá cho cán bộ các cơ quan tỉnh. Năm ấy, Quán bị... rồi. Một hôm, phấn khích một cách dại dột tôi đọc hùng hồn bài thơ “Chống tham ô lãng phí” cho học viên nghe. Im phăng phắc. Không khí trong lớp ngột ngạt như trước bão. Tôi nhìn rõ cả nét giật giật trên mặt một ông Trưởng ty ngồi bàn đầu. Từ bàn thứ ba, một học viên mặt mũi phương phi, tóc hoa râm đứng dậy: Tôi xin hỏi thầy giáo: Phùng Quán lấy tư cách gì mà phê phán xã hội như thế? Tôi điềm tĩnh: - Thưa anh, trước hết tác giả lấy tư cách công dân rồi mới lấy tư cách nhà thơ. Phùng Quán không phê phán xã hội mà phê phán tệ nạn xã hội: đó là tệ tham ô, lãng phí. Bài thơ này, không ai nói gì trên báo nhưng đến năm 1958, khi anh in “Lời mẹ dặn” thì Phùng Quán bị báo chí phê phán, mà khởi đầu là bài viết của ông H.V.H (ký bút danh tôi không nhớ nữa, in trên báo Nhân dân). Cái lõi ý tưởng của bài thơ là: Người làm xiếc đi dây rất khó nhưng chưa khó bằng làm nhà văn đi trọn đời trên con đường chân thật Tôi muốn làm nhà văn chân thật Chân thật trọn đời Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã. Để dẫn đến điều ấy, anh phải bịa ra việc một lần anh nói dối mẹ suýt bị ăn đòn, mẹ khuyên anh phải làm người chân thật, anh chưa hiểu được mẹ giải thích: Con ơi một người chân thật Thấy vui muốn cười cứ cười Thấy buồn muốn khóc là khóc Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao doạ giết Cũng không nói ghét thành yêu (Dạo ấy, tôi góp ý với anh sửa chữ “cầm” bằng chữ “giơ” (giơ dao doạ giết) nhưng anh không nghe) Ngẫm cho cùng, bài thơ không sai gì cả. Những lời mẹ dặn anh muôn thuở vẫn là bài học vỡ lòng về cái sự làm người mà ở xã hội nào, con người nào cũng phải có. Bài thơ được sắp xếp lớp lang, là loại thơ “luận đề” với cái chất ồn ào của Phùng Quán. Người ta phê phán vì khó chịu với cách nói vỗ mặt, quyết liệt, châm chọc của anh chăng? Trường hợp này rõ là: “Yêu nên tốt ghét nên xấu!” Vì đã thiệt thòi, vất vả nên làm thơ về cây cỏ, hoa lá, Phùng Quán cũng cứ “một lời là một vận vào khó nghe”. Anh khiếp phục cây vạn niên thanh chỉ vì: Anh uống độc khí trời Anh xơi độc nước lã Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh. Anh yêu cây xương rồng “không cành cũng không lá/ Toàn những thân với thân/ Mà thân thì dựng ngược/ Như gậy gộc nghĩa quân”. Anh gọi ra cái bản chất cốt tuỷ của xương rồng: Mọc lên từ cát lửa Hồn vẫn xanh mát trong Che chở người lương thiện Trộm cướp đều ngại ngùng ... Hay xương người nghĩa khí Ngã xuống rồi hoá thân? Anh nhờ cây dứa dạy cho anh “cách chắt lọc từ khô cằn sỏi đá/ Chắt mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn” để giúp anh: ... từ cuộc sống gian lao, bất trắc khôn lường Tôi vẫn viết được Dâng tặng đời Những trang văn đầy ắp mật. Sử dụng cách hư cấu chi tiết của văn xuôi, anh viết bài thơ “Cây mận Vĩnh Linh” rất lạ. Có một người vợ sắp làm mẹ, ăn rở của chua, cắn trái mận thì bom Mỹ ném trúng giữa nhà. Khi Vĩnh Linh im tiếng súng, nơi chị ngã năm xưa sum suê một cây mận, quả trĩu cành, nhưng lạ chưa: Trái nào tôi cũng thấy Cắn giở có vết răng Cái vết răng ấy đã ám ảnh tâm linh người chồng khôn nguôi để anh nhìn trái mận nào cũng như có vết răng cắn giở của vợ! “Trường ca cây cà”có 56 dòng thơ mà anh chia làm 6 chương, có chương chỉ có 5 dòng, chương nào cũng có chức phận, có điều để ký thác, gửi gấm tâm sự như: Biết khổ đấy Mà không ngại khổ Bởi đất sinh là để làm cà Mặc cho sâu róm đầy cành Rễ còn bám đất Còn khôn nguôi tím nguôi xanh Anh viết một bài thơ động viên Hoàng Cầm, một bài thơ ca ngợi Văn Cao, cả hai bài đều mãnh liệt, hay ở chỗ mãnh liệt ấy. Là người lạc quan nhưng hoàn cảnh riêng quá ngặt nghèo, có lúc anh phẫn chí. Bài thơ “Say” chẳng qua là mượn rượu đưa lời để ký thác tâm tư. Những năm 90, Phùng Quán làm một cái chòi tre trong vườn, ngoảnh mặt ra Hồ Tây, anh đặt tên là “Lầu ngắm sóng” cho oai! Bạn bè ở Hà Nội và các tỉnh xách rượu lên lầu uống với Phùng Quán: Chiếu rách ta ngồi Lắc lư thuyền sóng Cái giường long mộng Một dòng sông trăng Phùng Quán thấy mình đang cùng Lý Bạch ôm trăng nhưng hoá ra: “Mạn thuyền vừa cúi/ râu tóc bỗng lừng/ Mắm tôm, chanh ớt/ Trăng ta vồ được/ Một mảnh ni lông”... Đau đớn chưa, hở Giời! Từ phẫn chí đến nói ngông chỉ là gang tấc: Mời bác Ba Vì xích lại đây Ta cùng tuý luý ngắm sóng say ... Tôi thì làm thơ, bác làm núi Nhớ nhau tưới rượu xuống hồ Tây Cái cung cách ấy, tôi không thích nhưng thông cảm. Chất thi sĩ đích thực của Phùng Quán bộc lộ rõ nhất ở bài thơ “Tạ” viết về làng Thuỷ Dương quê anh. Lần ấy Mặt trận Tổ quốc xã anh tổ chức một cuộc để nhà thơ quê hương về bái tổ, gặp gỡ bà con dân làng. Phùng Quán quỳ xuống lạy quê hương, lạy bà con cô bác rồi đọc thơ, bài “Tạ” xúc động nghẹn ngào: Con tạ đất làng quê Thấm đẫm máu bao anh hùng đã khuất Không ngọn cỏ nào không long lanh nước mắt Không lá cây nào không mặn chát gian lao. Anh yêu nồng nàn mảnh đất của Tổ quốc đã sinh ra anh, tạ ơn những gì đã nuôi dưỡng anh thành người: Con tạ đất làng quê Manh chiếu rách con nằm Con tạ Bát cơm nghèo mẹ con ăn Con tạ Câu dân ca mẹ con hát Tất cả thành sữa ngọt Sức viết, sức nghĩ và khả năng liên tưởng, ký thác mạnh mẽ của Phùng Quán còn bộc lộ trong “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”. Bài thơ quyết liệt khẳng định thơ chân chính bao giờ cũng đi cùng mồ hôi nước mắt của nhân dân. Và khi đã tự nguyện đi cùng nhân dân thì: Đã đi với nhân dân Thì thơ không thể khác Dân máu lệ khốn cùng Thơ chết áo đắp mặt Có một hồi, Phùng Quán thấy mình không viết được nữa. Nhân cơ quan anh - Bộ Văn hoá có một khu đất tăng gia sản xuất ở Thái Nguyên, anh xung phong lên trông coi. Phùng Quán ở một mình trong cái lều anh tự dựng, trước mặt là con suối Linh Nham, bắt ốc dưới suối mà ăn, nuôi gà lấy trứng bồi dưỡng, trồng sắn, trồng khoai, gà và người cùng ăn, đẽo lấy guốc mộc mà đi... Vẫn không viết được, Phùng Quán khoác tay nải đựng vài bộ quần áo chàm cũ bạc, một tập thơ Cao Bá Quát một tấm ảnh nhà văn Nga Đốt-tôi-épski về lại Huế yêu thương. Anh gặp và yêu một thiếu phụ Huế đẹp một cách kiêu sa và ý thơ lại cuồn cuộn. Tiểu thuyết tình bằng thơ 13 chương của anh đọc thật hấp dẫn và thú vị nì nó bộc lộ tài năng của một nhà văn và một nhà thơ. Thiếu phụ Huế kiều diễm và kiêu sa kia phải chăng là hình ảnh Nàng thơ mang tính ẩn dụ. Anh yêu Nàng đắm đuối nhưng Nàng đã chối từ: Nếu không được ngồi Thì tôi xin đứng Cùng với chổi em dựng xó nhà ... Em giận dữ la lên Đứng trong xó nhà cũng không được đứng!... Dù bị chối từ anh vẫn yêu Nàng thơ, yêu Đất nước và anh tin khi chết đi rồi, anh lại hồi sinh...
Phùng Quán đã sống những ngày thật say mê của tuổi trẻ bồng bột và tin yêu của người lính gan dạ, hiên ngang ngoài mặt trận. Anh cũng đã được sống những phút ngất ngây khi ký 3000 cuốn tiểu thuyết Vượt Côn Đảo để gửi vào tiếp sức cho đồng bào miền Nam giữ vững lòng tin và ý chí đấu tranh, những phút phanh ngực áo đọc thơ cho công chúng nghe thâu đêm bài này đến bài khác. Phùng Quán khi quá say, quá mê đã... gặp nạn. Nghề nào cũng có tai nạn lao động nhưng nghề văn thì không được phép! Nếu không vấp váp, bây giờ trên cầu vai áo anh chắc cũng lấp lánh quân hàm đại tá. Riêng tôi nghĩ đại tá ở nước ta thì nhiều, nhưng một người mà... hai “nhà” ra nhà như Phùng Quán, e hiếm... N.B.V
(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)
|