Uy tín của Simone de Beauvoir trong phong trào phụ nữ lớn đến mức chính Tổng thống Pháp François Mitterrand cũng phải ca ngợi bà là “một trong những nhà văn hóa bậc thày, nhà tiên phong mở hướng cho thời đại. Cuộc đời bà, các tác phẩm bà viết và cuộc đấu tranh của bà đã nâng cao giác ngộ của tất cả những người đàn ông và đàn bà nước Pháp cũng như toàn thế giới”. Khi bà mất, trong diễn văn tiễn biệt, ngài bộ trưởng Bộ văn hóa Pháp đã thốt lên : “Thưa các chị em phụ nữ trên toàn thế giới, chúng ta hàm ơn bà ấy biết bao nhiêu”.Người ta vẫn coi bà là nhà hoạt động chính trị xã hội đã làm thay đổi đời sống chính trị và trí tuệ của giới phụ nữ phương Tây thế kỷ XX.
Bắt đầu từ triết học hiện sinh :
Ở Paris, trên dòng sông Seine thơ mộng có một cây cầu được người Pháp đặt tên và gọi một cách trìu mến là Passerelle Simone de Beauvoir. Cây cầu có hình dạng thật đặc biệt, giống như một con mắt mở ra trước cuộc đời, nhìn đời một cách mạnh mẽ nhưng đầy nhân hậu, ánh mắt đầy vẻ hiện sinh kiểu Simone de Beauvoir. Nó trông thẳng về tòa nhà trụ sở của cơ quan quyền lực tài chính Pháp - Bộ Tài chính như một thách thức, rồi hướng tới một công viên yên tĩnh mỗi mùa xuân lại xanh ngút ngàn cây lá. Sự hiện diện của cuộc sống chúng ta có nghĩa lý gì nhỉ? Simone de Beauvoir bắt đầu sự nghiệp khoa học và đấu tranh vì bình đẳng giới của mình bằng câu hỏi như vậy ?
Đầu thế kỷ XX, cuộc cách mạng công nghiệp và sau đó là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã làm thay đổi tận gốc nền sản xuất của xã hội. Tiến bộ này được các nhà tư tưởng phuơng Tây miêu tả như là thành quả của chủ nghĩa Duy lý. Đến những năm 50-60 xu hướng duy lý được đẩy cao bởi chủ nghĩa Kỹ trị. Tuy nhiên, ngay trong thời kỳ hoàng kim của nó, nhiều nhà triết học phi duy lý như Spengler, Nietzsche đã nói tới sự suy tàn của chủ nghĩa duy lý kỹ thuật và coi việc để cao kỹ thuật là nguyên nhân của bất hạnh, của những thảm hoạ đối với con người và sự phá vỡ các mối quan hệ xã hội. Sự phi lý của chiến tranh đã gây ra những hoang mang cho con người làm người ta cảm nhận sự phi lý của cuộc sống. “ Tự do, bình đẳng, bác ái” dường như chỉ còn là khẩu hiệu.
Bên cạnh đó, một số sự kiện lớn xảy ra trên thế giới gắn liền với những hành động u tối của nhân loại cũng làm nhức nhối những trí thức tiến bộ. Sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít và thế chiến 2, rồi đến chiến tranh lạnh, nguy cơ đe doạ nhân loại bằng vũ khí tối tân, bom nguyên tử. Và câu hỏi Sự hiện diện của cuộc sống chúng ta có nghĩa lý gì nhỉ ? lại hiện lên, đầy những thách thức.
Chủ nghĩa Hịên sinh mà Jean Paul Sartre, nhà triết học Pháp được coi như là người đặt nền móng đã xuất hiện và phát triển mạnh thời kỳ này là một phản ánh hiện thực xã hội. Đây cũng là một thành tố trong các cuộc “ nổi loạn” của sinh viên Pháp vào tháng 5, tháng 6/1968 và trong phong trào “ Phản kháng đối với các giá trị văn hoá” của thanh niên Mỹ
Là bạn và người tình trọn đời của Jean Paul Sartre, Simone De Beauvoir vừa chịu ảnh hưởng quan điểm hiện sinh của ông vừa sáng tạo những tư duy mới. Chính bà đã góp phần đẩy chủ nghĩa hiện sinh sang hướng tích cực hơn. Thay vì mệt mỏi, chán chường vì “sự vô nghĩa” của cuộc sống, hoặc ví von cuộc sống con người chỉ hiện hữu như “con gián, con rệp” như nhiều nhà hiện sinh lúc đó, Simone De Beauvoir đề cao một sự hiện hữu tích cực. Bà vừa chống lại sự hiện diện của chủ nghĩa cường quyền và bạo lực, chống lại việc đề cao sự thống trị của kỹ thuật trong chủ nghĩa Duy lý vừa đấu tranh cho những sự bình quyền, đặc biệt là bình quyền nam nữ, hướng tới một sự sống tốt đẹp cho con người.
Giới tính thứ hai
Trong khi quan điểm cơ bản của thuyết Hiện sinh là tôn vinh giá trị cá nhân và cuộc sống hiện tại của con người trong xã hội, trong khi đề cao cái tôi, những người sáng lập ra thuyết này đã dường như quên hẳn vấn đề phụ nữ. Simone De Beauvoir trong khi tham gia trong nhóm Hiện sinh của Jean Paul Sartre, có điều kiện tiếp cận sâu với tư tưởng của Sartre và với trái tim nhân hậu đầy nữ tính, cộng với tư cách một nhà triết học, một nhà văn đã dễ dàng nhận ra những thiếu hụt của thuyết này. Bà trở thành một trong những người sáng lập ra thuyết Nữ quyền hiện sinh.
De Beauvoir sử dụng tri thức uyên bác của mình về triết học để thể hiện tình cảm của mình về giới phụ nữ và ra tuyên ngôn của riêng mình về chủ nghĩa nữ quyền và chủ nghĩa hiện sinh. Với những nhận định rút ra từ sự hỗn loạn và điên rồ của cuộc thế chiến thứ hai, những sự sai lệch về giá trị và đạo đức của nhân loại gắn liền với chủ nghĩa cá nhân cực đoan, De Beauvoir đã đưa ra một hệ thống những khái niệm quan trọng nhằm phát triển một học thuyết về nữ quyền. Bà cho rằng thái độ đối với tự do là giá trị cao nhất của con người, là thước đo về đạo đức và phi đạo đức của họ về chính con ngươì. Những hành vi tốt làm tăng sự tự do của con người còn những hành vi xấu hạn chế sự tự do đó. Năm 1945 bà cùng với Jean Paul Sartre lập ra tạp chí Les Temps Modernes chuyên nghiên cứu văn hoá và những vấn đề của đời sống hiện đại.
Tiểu thuyết của De Beauvoir mặc dù đã thể hiện những quan điểm chính yếu của chủ nghĩa hiện sinh, nhưng lại luôn khuyến khích các cuộc tranh luận về nữ quyền của thế kỷ 20. Tác phẩm Giới tính thứ hai, xuất bản năm1949, đã gây chấn động dư luận xã hội. Trong tác phẩm này, De Beauvoir cho rằng phụ nữ bị áp bức bởi tính chất “ là người khác” nghĩa là khi họ không phải là nam giới. Nam giới là cái “tôi “, là người tự do và quyết định mọi việc. phụ nữ bị xem là “ một nửa” của anh ta. Nếu phụ nữ muốn trở thành cái “tôi” giống như nam giới thì phải thay đổi các định nghĩa, nhãn hiệu vốn đã làm hạn chế sự tồn tại của họ. Chừng nào mà các quy chuẩn xã hội còn coi nam giới là người chủ trong xã hội, là cái tôi và gọi phụ nữ là “người khác”, là “ một nửa” của cái tôi nam giới, là khách thể so với nam giới, chừng đó chưa thể có bình đẳng giới. Chính người phụ nữ đã bị áp bức vì họ có tính chất là “ một nửa”, là “người khác” như trên. Nếu phụ nữ muốn trở thành cái tôi thực sự bình đẳng, chị ta phải thay đổi định nghĩa, biến cái phụ thuộc thành cái của mình. Bởi vậy De Beauvoir kêu gọi mọi người hãy suy nghĩ về phụ nữ theo cách mà họ đã suy nghĩ về nam giới.
De Beauvoir đã viết nhiều tác phẩm văn học và triết học nổi tiếng, được nhận nhiều giải thưởng lớn, nhưng với tác phẩm “ Giới tính thứ hai “ (The Second Sex), bà đã trở thành một nhà nữ quyền kinh điển, một phụ nữ tiên phong trong phong trào phụ nữ quốc tế.
Triết học về Giới và chủ nghĩa Nữ quyền mới mà De Beauvoir khởi xướng đã hoà nhập vào những mặt tiến bộ của phong trào Hiện sinh đồng thời góp phần chống chủ nghĩa Duy lý. Cùng với các nhà Hiện sinh khác chống lại xã hội kỹ trị, chỉ biết đế kỹ thuật mà coi nhẹ con người, De Beauvoir đã đi sâu nghiên cứu một thiết chế xã hội cụ thể là gia đình và thân phận người phụ nữ. Bà cho rằng, trên thực tế, sự thay đổi các hình thức hôn nhân và gia đình, vai trò và vị thế của nguời phụ nữ trong gia đình đã dựa trên sự thay đổi của các điều kiện kinh tế – xã hội và phản ánh sự thay đổi đó. Tuy nhiên, thân phận của người phụ nữ thường lại được thay đổi rất chậm chạp. Người ta thường vẫn đặt vấn đề về nâng cao vai trò của người phụ nữ, nhưng thực chất lại muốn níu kéo họ trở lại với các chức năng truyền thống, với công việc bếp núc, sinh đẻ, coi phụ nữ như một “máy đẻ” thụ động, cấm họ ngừa thai và nạo thai…Những quan điểm này đã làm tổn thương đến phụ nữ và vị thế của họ với tư cách là một thành viên của xã hội và gia đình.
Sự bùng nổ về các hình thức hôn nhân mới là những yếu tố tác động trực tiếp tới cách giải quyết vấn đề giới, vấn đề gia đình của các nhà Nữ quyền hiện đại trong đó có De Beauvoir. Thực tế của xã hội hiện đại cho thấy, phụ nữ vẫn còn bị phân biệt đối xử trong gia đình cũng như ngoài xã hội, thu nhập thấp, công việc nặng nhọc, không được hưởng sự bình đẳng trong giáo dục, chịu nhiều áp lực từ việc sinh đẻ… Bởi vậy, De Beauvoir và các nhà Nữ quyền Pháp đã tích cực đấu tranh chống lại những định kiến, sự bất công vô lý và đòi quyền bình đẳng cho phụ nữ, làm thế nào để phụ nữ thoát ra khỏi sự cạnh tranh và bạo lực, sự chi phối của đồng tiền và quyền lực, thoát khỏi sự đe doạ bởi các thứ công nghệ không thể kiểm soát được … De Beauvoir cho rằng, những điều này xuất phát từ một xã hội duy lý cao độ, phá hoại tự do, tạo ra bất bình đẳng, một xã hội luôn làm con người bị tha hoá.
Trên lập trường hiện sinh, De Beauvoir đã tìm ra một con đường giải phóng phụ nữ độc đáo, bà được coi là một trong những người khởi xướng Làn sóng Nữ quyền thứ hai. Trong tác phẩm “ Giới tính thứ hai “ bà đã quyết tâm đưa thân phận người phụ nữ ra ánh sáng, chỉ ra cội nguồn của sự bất bình đẳng giới về mặt khoa học và mặt thực tiễn, phân tích tính khác biệt của phụ nữ, điều đã khiến cho trong xã hội họ chỉ được nhận “phẩm chất thứ hai” không cơ bản, một thứ công dân loại hai so với đàn ông.
De Beauvoir cũng được coi là nguời “ báo trước chủ nghĩa Nữ quyền hậu hiện đại”, một xu hướng đấu tranh mơi, một kiểu gia đình mới, gia đình hậu hiện đại, gia đình chống sự duy lý hoá. Bản thân De Beauvoir đã quyết từ bỏ thân phận phụ nữ của mình, thậm chí từ chối có con để dành nhiều thời gian quan tâm đến những phụ nữ khác và chính điều này khiến bà trở thành một nhà tư tưởng lớn. De Beauvoir luôn vươn tới tự do, khẳng định một chân lý là : làm phụ nữ không phải là một chứng tật. Bà nói : tôi không chịu khuất phục ai cả, tôi luôn là người chủ của bản thân tôi. Trong cuộc sống chung với Sartre bà luôn tìm kiếm cho mình một lãnh thổ độc lập vừa đủ cho tình yêu và một cuộc sống chung của cả hai. Bà là người đầu tiên đưa ra kết luận : Phụ nữ không phải chỉ được sinh ra mà họ cần phải được tôn trọng.
Thực nghiệm bình đẳng giới bằng chính cuộc đời mình
Là người đặt nền móng cho thuyết nữ quyền hiện sinh, De Beauvoir không bao giờ cho phép mình trở thành cái “một nửa” không bình đẳng của giới mày râu. Năm 1929, Bà tham dự kỳ thi lấy bằng thạc sĩ triết học (agrégation de philisophie), cùng khóa thi với Jean Paul Sartre. Trong khi chàng trai trẻ Jean Paul Sartre 24 tuổi đỗ đầu nhóm nam thì Simone de Beauvoir 21 tuổi đỗ thẳng, đứng thứ hai nhóm nữ và trở thành người phụ nữ trẻ nhất được phong học vị thạc sĩ triết học trong lịch sử nước Pháp. Học vị này trên thực tế là rất khó đạt được theo quy định lúc đó.
Về hai nhà triết học này, nhiều trí thức Pháp còn cho rằng “Sartre là một tài năng kiệt xuất, nhưng De Beauvoir mới thực sự là nhà triết học”. Và họ đến với nhau, yêu nhau. De Beauvoir viết rằng “Tôi đã linh cảm thấy anh ấy sẽ không bao giờ ra khỏi cuộc đời tôi... Đây là một tình yêu tất yếu giữa hai chúng tôi”. Họ sống với nhau như vợ chồng suốt cuộc đời, nhưng không bao giờ lấy nhau, tôn trọng lẫn nhau, kể cả việc chấp nhận người kia có quan hệ tình cảm với một kẻ thứ ba.... Sartre nói với Beauvoir: “Anh yêu em, nhưng anh không phải là kẻ tôn thờ chế độ một vợ một chồng.” Còn De Beauvoir khẳng đinh bà không thể để cuộc sống hôn nhân làm hạn chế sự tự do của mình, nhất là làm cái nửa bất bình đẳng, cho dù là nửa của một vĩ nhân như Sartre. Bà nói vui với bạn bè : “tại sao tôi lại cứ phải để cái anh chàng Sartre bé con nó ngọ ngậy trong bụng mình thì mới được coi là phụ nữ nhỉ”.
Khi Sartre được Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển trao giải Nobel và ông đã thẳng thừng từ chối nhận vì không muốn biến mình thành nô lệ của bất cứ một thiết chế xã hội nào, thì De Beauvoir cũng nói: “Tại sao người ta chỉ biết bảo rằng De Beauvoir là bạn đời của Sartre mà chẳng ai biết rằng chính Sartre là bạn đời của De Beauvoir nhỉ ?” . Và thật rõ ràng rằng trong cuộc đời mình, De Beauvoir cũng đã là một cây tùng cây bách mà chẳng bao giờ chịu núp dưới bóng của Sartre. De Beauvoir muốn thực hiện cuộc đấu tranh vì bình đẳng giới bằng chính cuộc đời mình.
Theo Lê Thị Quý - VHNA