Khi giọt sương sớm vẫn đang còn bảng lảng cuộn quấn đại ngàn Trường Sơn thì những đôi chân trần bé nhỏ của các em học sinh người Pa Cô, Vân Kiều huyện miền núi A Lưới (Thừa Thiên - Huế) đã theo bố mẹ lên rẫy, lên nương. Phận du canh của những con người trên “nóc nhà Trường Sơn” khiến cuộc sống và việc học tập của con em họ gặp muôn vàn khó khăn.
Ký ức nương rẫy
Xã A Đớt (huyện A Lưới, Thừa Thiên – Huế) có 3 thôn giáp với biên giới Việt - Lào là A Tin, Chí Hòa, La Tưng với khoảng 200 hộ dân sinh sống. Dù đã “định cư” bên Việt Nam nhưng những khoảnh nương rẫy gắn bao giọt mồ hôi của hàng chục hộ dân ven biên giới Việt - Lào vẫn được đầu tư, chờ ngày thu hoạch. Những ngày cuối mùa hạ, trời A Lưới thường mưa lớn mỗi khi về chiều, không qua nương rẫy được vì sông suối nước lớn, anh Kê Un (34 tuổi, thôn A Tin) bảo: “Đi nương rẫy cũng quen rồi nhà báo ơi, hơn một tuần nay mưa suốt, mình lo cho hai sào sắn và ngô bên sông A Sáp quá. Cả căn chòi bằng tranh nứa nữa, không biết nước có cuốn trôi không”.
Nhấp ngụm rượu sủi bọt tăm, Kê Un kể về cuộc du canh của gia đình mình với những ký ức nương rẫy ngồn ngộn. Anh kể, năm 1997, bố anh là Kê Tia dẫn mẹ là Kăn Pling và mấy anh em sang khoảnh đất bên dòng sông A Sáp (huyện Ka Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) để phát nương làm rẫy, trồng khoai sắn. Lúc đó Kê Un cũng mới 17 tuổi, bàn chân cũng chưa quen lắm với việc đi rừng. Cuộc sống như “người rừng” với muôn vàn khó khăn. Ban đầu, cả gia đình phải cắt cây tranh lợp mái nhà, chặt cây làm cột, chẻ tre lồ ô làm phên che chắn. Mang theo cho cuộc hành trình kiếm vùng đất mới chỉ là những đọt khoai, củ sắn, hạt ngô làm giống.
Trước đây, gia đình anh ở thôn Pa E (xã Nhâm, huyện A Lưới), thiếu đất sản xuất, nương rẫy đường xa. Bố anh bảo cứ như thế này thì 4 người con trai không biết lấy gì mà ăn cho qua ngày tháng. Những triền đồi hai bên dòng sông không phải bố Kê Un là người “phát tích” đặt nhát cuốc đầu tiên mà trước đó, hàng chục hộ dân với đường biên giới núi đồi nhưng vẫn không ngăn được bước chân của họ đi tìm vùng đất mới. Nguồn lương thực mang theo cứ cạn dần, điều đó không đáng sợ bằng những cơn gió hoang miền biên ải khi cả gia đình chỉ có mấy bộ áo quần. Cứ trời mưa ướt, đứng tắm dưới sông, mang quần đi giặt rồi ngâm mình dưới sông, đợi trời nắng cho khô mới có mặc. Sau này, bố anh là Kê Tia đã “phát minh” ra một loại “áo quần” mới là dùng vỏ cây A Mâng giả mịn, quấn quanh người thay cho quần áo.
Kê Un bảo, hồi ở bên đó, đường sá chưa có, cả năm gia đình mới về lại ở thôn Pa E một lần. Trong ký ức của Kê Un, mỗi trận sốt rét rừng đi qua với những đêm dài nằm nghe tiếng thú dữ hú gọi kinh hoàng. Với những người du canh tìm vùng đất mới như gia đình Kê Un, không có khái niệm ốm đau, bởi ốm đau chỉ có đường…chết. Cái chết của anh trai Kê Un là Pờ Lau đã trở thành nỗi ám ảnh cho cả gia đình. Hồi đó Pờ Lau là lao động chính trong nhà, sau buổi đi rẫy về người anh nóng hầm hập, hai mắt nhắm nghiền. Gần một tuần uống thuốc từ rễ, lá cây mà không bớt. Hoảng quá, cả gia đình băng đường rừng đưa anh ra bản Ka Lô (huyện Ka Lừm, tỉnh Sê Kông, Lào) nhờ dân bản và bộ đội biên phòng cứu giúp nhưng đã quá muộn. Sau khi bố Kê Un mất, cả nhà lũ lượt kéo nhau về A Đớt, hiện nay, những cuộc đi rừng vẫn tiếp diễn bởi nương rẫy khai hoang một thời không bỏ đi được.
Không chỉ tìm vùng đất mới, nhiều cư dân sống sát biên giới xã A Đớt cũng tìm kiếm vận may giữa núi rừng theo những cuộc đào đãi vàng sa khoáng. Pờ Loang Cộc (thôn Chí Hòa), nhờ cuộc tìm vận may mà có được vợ nhưng cũng nếm đủ mùi đắng cay giữa chốn rừng thiêng. Ngồi trò chuyện Pờ Loang Cộc bảo, hồi đó khốn cùng, mình ỷ vào sức trẻ mới đem gửi thân giữa chốn rừng thiêng. Năm 1990 mình theo đám bạn qua đồi Pờ Le (huyện Ka Lừm) đào đãi vàng rồi gặp vợ mình là A Vô A Châm (người Lào) đến đây làm nương rẫy. Sáng tối gặp nhau, chia từng củ sắn qua ngày để rồi yêu nhau rồi sinh con đẻ cái. Từng đứa con cũng ra đời theo mỗi mùa nương rẫy. Núi rừng không ưu đãi mãi, sau một thời gian đào đãi, Pờ Loang Cộc đi thẳng qua thôn Ta Vàng quê vợ sinh sống. Năm 2012, anh trở về thôn Chí Hòa, nhưng đến mùa nương rẫy lại trở lại đồi Pờ Lê để đốt cây bụi, trồng ngô, sắn…
Gia đình Pờ Loang Cộc hàng tháng phải du canh qua Lào |
Nỗi buồn theo con chữ
Kéo theo những cuộc du canh của tộc người Pa Cô, Tà Ôi là những đứa trẻ hoài thai giữa chốn rừng thiêng, mịt mù con chữ. Dù là cư dân Việt Nam nhưng họ nói thông thuộc tiếng Lào hơn tiếng mẹ đẻ. Những thế hệ như Kê Un và hai người em Kê Ót, Kê Ái không có được con chữ đã đành, những người con của họ cũng không mấy người biết chữ. Sinh ra giữa chốn rừng hoang vu, sống cùng cha mẹ, ông bà, đa phần những đứa trẻ đều không được đến trường. Kê Un bảo: “Hồi đó bố mình cũng muốn con cái đi học lắm nhưng không có điều kiện. Nếu về A Đớt phải mất 2 ngày đi đường rừng, đường sá quá xa xôi. Chỉ còn cách cho con em qua bản Ka Lô học cùng con em bạn Lào, nhưng cũng chẳng được mấy bữa vì mình không có tiền.”
Cuộc sống không ổn định khiến những đứa trẻ mịt mù con chữ |
Kê Un cũng có 3 người con, đứa lớn 13 tuổi, đứa nhỏ cũng đã đến tuổi vào lớp 1 nhưng vẫn không được đến trường. Trong nhà có được 5 sào ruộng, chỉ đủ đắp đổi qua ngày. “Mình muốn được nhập hộ khẩu, con cái có giấy khai sinh để được đến trường như bao đứa trẻ cùng trang lứa. Đời mình theo bố mẹ đi nương rẫy đã không được học hành, giờ không lẽ lũ trẻ cũng như mình, không biết đến cái chữ thì tội quá.” - Kê Un tâm sự.
Khổ nhất là do không biết chữ nên nhiều lúc cái khó bó cái khôn. Làm gì liên quan đến giấy tờ đều nhờ cán bộ xã sang nhà “dịch” cho. Như Pờ Loang Cộc có cả thảy 4 người con, đều được sinh ra trong chuyến làm vàng bên đất Lào. Dù đã qua lại Việt Nam hơn năm nay nhưng tiếng Pa Cô dân tộc mình các con của Pờ Loang Cộc nói còn chưa rành rẽ huống chi tiếng Kinh. Đứa con trai út là Pờ Loang Mỹ dù đã 14 tuổi nhưng cũng không được đến trường ngày nào. Mỹ phải ở nhà giúp bố mẹ quần quật với 3 sào ruộng nước. Đến mùa đốt nương rẫy, trồng khoai sắn thì theo bố mẹ qua lại đồi Pờ Le sinh sống.
Cuộc sống cứ “du mục” suốt bao mùa rẫy của cư dân Pa Cô, Tà Ôi khiến con cái họ mịt mù con chữ như chính cuộc đời bố mẹ chúng. Cái màu tro than giữa hoang hoải núi đồi đã bao năm qua vẫn chưa được xua đi trong cuộc hành trình tìm đất mới của họ. Bởi thế, người đồng bào không tính tuổi, họ chỉ tính qua bao nhiều mùa rẫy. Ông A Viêt Bàn - Trưởng thôn A Tin cho biết: “Do đặc thù các thôn nằm phân bố giáp biên giới Lào nên từ nhiều năm nay, tình trạng người dân du canh qua lại diễn ra khá phổ biến. Đa số các hộ dân đều là hộ nghèo, có gia cảnh khó khăn. Việc làm nương rẫy, cuộc sống không ổn định, nên con cái không được đến trường, không nhập được hộ khẩu”.
Minh Ngọc