Quyết lấy cô Nguyễn Hữu Thị Lan, Bảo Đại khi về Huế đã chống lại cuộc hôn nhân được hoàng tộc sắp đặt. Nhà vua lớn tiếng: “Lấy vợ cho tôi hay cho triều đình?”.
Nam Phương đặc biệt còn vì con người bà trái ngược với người đàn ông bà lấy làm chồng, thậm chí cá tính và sự sâu sắc của bà được đánh giá cao hơn Bảo Đại rất nhiều. Bởi thế, những yếu tố dẫn đến cuộc nhân duyên giữa họ vẫn luôn được hậu thế quan tâm tìm hiểu.
Cuộc gặp gỡ của vua Bảo Đại và cô gái sau này trở thành hoàng hậu của ông trên chuyến tàu thủy từ Pháp về Việt Nam được cho là có bàn tay của định mệnh. Nhưng sự thực, định mệnh “không có trách nhiệm” trong chuyện này.
Trời xe duyên hay người tính toán?
Trong hồi ký, Bảo Đại viết rằng cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa ông và Nam Phương diễn ra tại Đà Lạt vào mùa hè năm 1933 trong bữa tiệc của quan Đốc lý người Pháp.
Hoàng hậu Nam Phương kể: “Hôm đó ông Darle, Đốc lý thành phố Đà Lạt có gởi giấy mời cậu Denis Lê Phát An (cậu ruột hoàng hậu) và tôi đến dự dạ tiệc ở Hotel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút, vái chào nhà vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và cũng chỉ trang điểm sơ sài thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu tự lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi năm tay cậu tôi kéo chúng tôi vào nhà. Vừa đi ông vừa nói ‘ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được".
“Khi cánh cửa phòng khách mở ra, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:
‘Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse'.
“Nhờ các nữ tu ở trường Convent des Oiseux khi trước từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc quân vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng đế quỳ gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện”.
“Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngày rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người đàn bà Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo cung cách lễ nghi Âu tây đối với ngài”.
Bảo Đại thì kể: “Sau lần gặp đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi gặp nhau để trao đổi tâm tình… Cũng như tôi, Marie Thérèse (tên Pháp của Nam Phương hoàng hậu) rất thích thể thao và âm nhạc. Cô ta có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây”.
Mấy ngày sau, Bảo Đại về Huế và lập tức tuyên bố cưới Nguyễn Hữu Thị Lan. Các sử gia thì tin rằng, buổi dạ tiệc ấy không phải lần gặp gỡ đầu tiên mà chỉ là cuộc gặp “chốt” để Bảo Đại đưa ra quyết định dứt khoát, và sự thực là hai người đã biết nhau từ một năm trước (1932), từng ở bên nhau khá nhiều ngày trong chuyến hải trình từ Pháp về Việt Nam, khi Bảo Đại kết thúc việc học tập ở “mẫu quốc” để về nước chính thức cai trị, còn cô Nguyễn Hữu Thị Lan cũng hoàn tất 6 năm du học.
Một số tài liệu viết, Bảo Đại 19 tuổi và Nguyễn Hữu Thị Lan 18 tuổi tình cờ cùng có mặt trên chuyến tàu đó mà không gặp mặt nhau, nhưng các nhà sử học tin rằng, họ chẳng những đã gặp gỡ, trò chuyện mà cuộc gặp đó còn không thể là tình cờ, nó là sự sắp đặt rất công phu của người Pháp với mục đích đưa cô gái Tây học đất Gò Công theo đạo Thiên Chúa này lên ngôi hoàng hậu nước Việt, để dễ “nắm đầu” nhà vua.
Tác giả của kịch bản này chính là ông Charles, cựu khâm sứ Pháp, cha nuôi của Bảo Đại, người “bảo trợ” hoàng đế suốt những năm học tập ở Pháp, có quen biết với gia đình Huyện Sỹ (Lê Phát Đạt), một trong những người giàu nhất nước Nam, ông ngoại của Nguyễn Hữu Thị Lan. Charles đã thu xếp với gia đình họ Lê để đôi trẻ về nước trên cùng một chuyến tàu. Được giới thiệu với nhau, hai người trẻ tuổi vốn tiếp thụ văn hóa Tây phương đã dễ dàng chuyện trò, tìm hiểu.
Đôi trai gái này thậm chí được cho là đã gặp nhau trước đó nữa, cũng do sự sắp đặt của Charles. Ông đã thỏa thuận với trường nữ sinh Couvent des Oiseaux tại Paris nơi Nguyễn Hữu Thị Lan theo học để hoàng đế nước Nam đến dự lễ bế giảng năm học 1932 và một nữ sinh người Việt lên tặng hoa cho ngài. Nguyễn Hữu Thị Lan là thiếu nữ được chọn, và vẻ xinh tươi của cô đã khiến vị hoàng đế chú ý.
Các sử gia cho rằng, cô thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị Lan có thể không biết về chuyện “mối lái” này trong những lần gặp đầu tiên, nhưng Bảo Đại thì chắc hẳn đã được trao đổi trước về gia thế và bản thân cô gái, đã cảm thấy đây là người vợ phù hợp, và khi gặp mặt thì nhan sắc và cách thể hiện của cô càng khiến nhà vua vừa lòng.
Ông Phạm Khắc Hoè, cựu Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại, đã phân tích về cuộc hôn nhân này trong hồi ký “Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc” như sau: “Trong cuộc kết hôn giữa Bảo Đại với Nguyễn Hữu Thị Lan, lý trí nặng hơn tình cảm nhiều. Cô Lan lấy Bảo Đại chủ yếu là để lên ngôi Hoàng hậu. Bảo Đại lấy cô Lan chủ yếu là để đào mỏ.
Về mặt tình cảm, nếu có thì cũng chỉ là bề ngoài: hai người đều khoẻ mạnh, yêu thể thao và quen sống lối phương Tây, còn về tính tình, tâm tư thì hầu như trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn, ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là quyền bính. Ông ta có thể phục thiện nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái lại, Nam Phương là người kín đáo, trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy nghĩ, thích đọc sách, nguyên cứu hơn là ăn chơi … thích uy quyền và có nhiều tham vọng chính trị”.
Nguyễn Hữu Thị Lan đã đánh bật “tình địch” như thế nào?
Nếu như người Pháp muốn làm mối cho Bảo Đại một thiếu nữ Tây học theo Thiên chúa giáo thì Hoàng tộc Huế, theo truyền thống, lại muốn cưới cho nhà vua con gái của một trong các đại thần, và người được chọn là Bạch Yến, ái nữ của quan thượng thư Nguyễn Đình Tiên. Để chuẩn bị cho vai trò vợ vua, cô Bạch Yến đã được dạy dỗ về đàn ca, thơ phú, cung cách đi đứng, nói năng, giao tiếp, hằng ngày được tắm bằng sữa để có làn da trắng mịn…
Thế nhưng, hoàng đế trẻ tuổi khi trở về đã từ chối lấy Bạch Yến mà đòi cưới Nguyễn Hữu Thị Lan, người mà cha mẹ chẳng những không có chức tước gì mà còn theo Công giáo, lại quen thói tự do của phương Tây, làm sao giữ khuôn phép của một cô dâu hoàng tộc. Nghĩ vậy, Thái hậu Từ Cung và các đại thần, nhất là Tôn Thất Hân, người đứng đầu Viện Cơ mật và Tôn Nhân phủ, kiên quyết ép, còn Bảo Đại liên quyết chống lại. Nhà vua lớn tiếng: “Trẫm cưới vợ cho trẫm chứ có cưới vợ cho cụ Tôn Thất Hân và triều đình đâu!”.
Thuyết phục không nổi, bà Từ Cung và triều đình đành chấp nhận, và lễ cưới được diễn ra vào tháng 3 năm 1934. Vì không ủng hộ đám cưới này nên đoàn nhà trai đi rước dâu chẳng những trễ mất một ngày mà thành viên hoàng tộc còn chỉ lèo tèo có vài người. Họ nhà gái đưa cô dâu đến đèo Hải Vân phải chờ một ngày mới thấy đoàn nhà trai đến đón về Huế.
Về đám cưới, Bảo Đại viết trong hồi ký: “Đây là một lễ cưới đổi mới, trước kia chưa từng có trong cung đình. Lễ cưới được tổ chức ngay trong phòng tiếp tân của điện Cần Chánh. Cũng giống như lễ đăng quang, triều thần đứng sắp hàng dọc theo một tấm thảm đỏ và vàng dành riêng cho Hoàng đế. Lần đầu tiên trong lịch sử triều Nguyễn có một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.
Nam Phương mặc chiếc áo rộng thùng thình, chân đi hài mũi cong, đầu đội vương miện có đính vàng ngọc châu báu óng ánh. Nàng đi một mình đến giữa tấm thảm, tất cả triều thần cúi chào. Với một vẻ đẹp tuyệt vời nàng đi thẳng vào các phòng lớn, tôi đang ngồi chờ nàng trên một cái ngai thấp ở đó. Nàng đến đứng trước mặt tôi, cúi đầu chào tôi ba lần rồi ngồi ở cái ngai bên phải của tôi. Buổi lễ ngắn ngủi chấm dứt. Hoàng hậu đã ở bên tôi, chúng tôi sánh vai nhau bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành vào điện Kiến Trung – nơi ở và làm việc của chúng tôi”.
Ngay sau đám cưới, Bảo Đại ra chỉ dụ phong vợ mình làm Hoàng hậu với tên hiệu là Nam Phương, tức hương thơm của phương Nam. Để Nguyễn Hữu Thị Lan có thể làm vợ một hoàng đế theo đạo Phật, người Pháp xin phép Vatican cho phép đôi vợ chồng này ai giữ đạo riêng của người ấy, nhưng tòa thánh không chấp nhận, và vì đám cưới vẫn được tiến hành nên hoàng hậu Nam Phương bị giáo hoàng Pius XI rút phép thông công, đến khi giáo hoàng kế nhiệm lên ngôi mới tha phạt vạ bà Nam Phương, chấp nhận việc Bảo Đại không cải đạo, nhưng các con của họ đều phải theo Thiên chúa giáo.
Còn cô Bạch Yến, người vợ hụt của Bảo Đại, sau được gả cho ông Phạm Đình Ái, người gốc Quảng Nam, một kỹ sư hoá học được đào tạo ở Pháp về nước. Họ sống bên nhau rất hạnh phúc.
Nguồn khampha.vn