Thế giới sắc màu
Kỷ niệm 35 năm ngày mất họa sĩ Tôn Thất Đào 2/9/1979 – 2/9/2014
15:26 | 03/09/2014

ĐINH CƯỜNG

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
vẫn còn Núi Ngự bên bờ Sông Hương

                            (Bùi Giáng)

Kỷ niệm 35 năm ngày mất họa sĩ Tôn Thất Đào 2/9/1979 – 2/9/2014
Họa sĩ Tôn Thất Đào

Tôi muốn viết một bài về người thầy của tôi - họa sĩ Tôn Thất Đào - đã lâu mà chưa viết được. Có lẽ vì buồn quá. khi nghĩ về một họa sĩ duy nhất của Huế tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Đông Dương, có nhiều công lao đóng góp cho nền giáo dục mỹ thuật Huế mà không được đãi ngộ xứng đáng. Bao nhiêu bài báo gần đây loan tin và viết về các tác phẩm còn lại của thầy đã bị hư hỏng gần hết. Thương nhất và quý nhất là người con dâu bây giờ lo toan mọi chuyện từ chăm sóc các bức tranh còn lại trong nhà cho tới chuyện gia đình. Hình như thầy cô có hai trai một gái, người con trai đầu, Tôn Thất Lục, có vào học mỹ thuật dở dang, sau đó bị tai biến nằm liệt cho đến nay, là chồng của Liên Phương, người con dâu hiếm có kể trên, Tôn Thất Điều, người con trai út thì đã mất và nghe nói cô con gái, Tôn Nữ Như Hồng, giáo viên thì đang ở Mỹ Những người bà con bên phía thầy ở Mỹ cũng nhiều, ở Mỹ còn có nhiều học trò xuất thân từ trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, thời thầy là vị giám đốc khả kính đầu tiên, lúc trường còn nằm ở dãy nhà số 15 đường Phan Đình Phùng bên bờ sông Bến Ngự. Thời 1957 trường còn trực thuộc Viện Đại Học Huế do linh mục Cao Văn Luận làm viện trưởng. Sau 3 năm ở đó trường mới dời qua Đại Nội.Và hình ảnh của thầy lại luôn hiên ra trong tôi: thầy đi chiếc xe gắn máy màu đen hiệu Brigestone luôn dừng lại trước hai cánh cổng sắt hẹp trước sân trường, vốn là Lầu Diên binh vệ, nằm sát cửa Hiển Nhơn, khoan thai đẩy bộ vào. Hình như sáng nào cũng đều đặn như vậy. Bóng dáng vị giám đốc thật phúc hậu hiền lành, là con nhà hoàng tộc...
 
Tôn Thất Đào sinh ngày 15 tháng 10 năm 1910 (Canh Tuất) tại phủ Ô Hồ, làng Phú Cát Huế. Sau năm 1975, trải qua một tuổi già nhiều khó khăn, sức yếu, mất ngày 2 tháng 9 năm 1979 (Kỷ Mão) tại Gia Hội - Huế, thọ chưa đến 70 tuổi. Ngôi mộ chôn gần chùa Sư Nữ, An Cựu - Huế. Thân phụ: cụ Tôn Thất Tu, quan chức Nam triều, tước Hồng Lê Tự Khanh dưới triều vua Thành Thái. Thân mẫu: bà Lê Thị Liên. Hiền thê: bà Lê Khắc Ngọc Đại (1918 – 2002) em gái ông Lê Khắc Tưởng, thân sinh của giáo sư Lê Khắc Phò và Lê Khắc Cầm. Nhớ năm 2000 tôi về thăm thắp cây nhang cho thầy, còn ngồi trò chuyện cùng cô trong căn nhà xưa cũ ở số 17 đường Mạc Đỉnh Chi - Gia Hội, nay xem như Phủ Thờ Ô Hồ. Bàn thờ thầy và một số ít tranh hiếm hoi còn lại treo từ trên cao xuống … bị xuống màu vì ẩm mốc và chất lụa bị mục. Bà Trần Thị Liên Phương – con dâu trưởng – cho biết hàng năm bà có đem tranh ra phơi. Lựa ngày nắng vừa phải, bà đưa ra hiên, lật úp tranh lại trong vài chục phút rồi lại đưa tranh vào. Cách làm này do một người quen bày cho và bà không cò nhớ người đó là ai. “Có mấy bức cứ thỉnh thoảng rớt ra một mảng màu, rồi mục ra mà tui không biết cách chi để bảo vệ được”. bà Phương cho biết … (Thái Lộc - Bộ tranh Tôn Thất Đào đang nguy cấp - Tuổi Trẻ - 1- 4 – 2014). Đọc xong mà thấy nao lòng. Đem tranh ra phơi. nhớ sao những ngày sau mưa lụt ở Huế. có chút nắng lên…
 
Họa sĩ Tôn Thất Đào, một tên tuổi trong bộ mặt Văn Hóa Huế cần được trân trọng
 
Họa sĩ Tôn Thất Đào tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Đông Dương, khóa 8 (1932- 1937) cùng với Lương Xuân Nhị, Nguyễn Văn Khánh, Đỗ Đình Hiệp, Nguyễn Văn Thâu, Nguyễn Văn Thiện, Lê Yên và Nguyễn Thị Nhung. Các thầy giáo giảng dạy: Victor Tardieu (hình họa cơ bản), Nam Sơn (trang trí), Menarv (lịch sử mỹ thuật), Inguimberty (trang trí), L. Goger (điêu khắc), Defenix (giải phẫu cơ thể người). Năm Tôn Thất Đào ra trường cũng là năm Victor Tardieu (1870 – 1937) mất. Tardieu học cùng thầy vớ Rouault và Matisse, một họa sĩ giỏi, ông là vị giám đốc có công lớn đã gần gũi giúp đỡ để đào tạo những họa sĩ danh tiếng Việt Nam góp mặt những tác phẩm sơn dầu, lụa, sơn mài ra thế giới, càng ngày càng đắt giá cho tới ngày nay. Theo nhà phê bình, nghiên cứu lịch sử mỹ thuật Thái Bá Vân: Cuộc triển lãm của thế hệ học sinh đầu tiên vào năm 1931 ở Hà Nội và sau đó ở Paris, đã gồm những tác phẩm xuất sắc của Nguyễn Phan Chánh, Tô Ngọc Vân, Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ, Lê Phổ, Công Văn Chung, và tên tuổi họ đã lọt hết vào lịch sử mỹ thuật Việt Nam (Thái Bá Vân - Tiếp Xúc Với Nghệ Thuật - Viện Mỹ Thuật Việt Nam 1977, trang 67), với họa sĩ Lê Văn Đệ thì: Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội ra đời đã mở một kỷ nguyên mới cho nền mỹ thuật Việt Nam.
 
Huế là nơi ghé đến của bao văn nhân nghệ sĩ nổi tiếng thời ấy, tác phẩm Bến thuyền Sông Hương của Tô Ngọc Vân, những tác phẩm của Nguyễn Đỗ Cung …Nguyễn Đỗ Cung còn là giáo sư dạy hội họa ở Huế rất sớm, đã từng sống ở đường Âm Hồn trong Thành Nội từ năm 1942 đến 1944. Mai Trung Thứ (1906 – 1980) - sau này đổi thành Mai Thứ - sinh ra và lớn lên tại Huế, ra Hà Nội học khóa đầu tiên trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Đông Dương, năm 1937 ông qua Pháp và định cư tại đó cho đến khi mất (1980). Nhớ nhất là năm 1960 ông về thăm Huế, ghé thăm bạn là Tôn Thất Đào đang làm giám đốc trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế và thầy Đào có nhờ ông hướng dẫn một lớp vẽ tranh lụa khô (theo kỹ thuật vẽ lụa của ông khác với lụa rửa theo truyền thống) và ông cũng đã tặng Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam tranh Thiếu nữ Huế, tác phẩm sơn dầu vẽ năm 1934 thật quý.

Họa sĩ danh tiếng về sơn mài Nguyễn Gia Trí cũng đã ra thăm trường, thăm bạn là Tôn Thất Đào và Lê Yên. Hình ảnh với vóc dáng nhỏ nhắn của người họa sĩ bậc thầy về sơn mài tài hoa ấy vẫn mãi đậm dấu trong tôi với câu nói: Nghệ thuật là phương tiện để mình đi vào thế giới chưa từng biết…
 
Sau khi tốt nghiệp, năm 1939 họa sĩ Tôn Thất Đào được bổ nhiệm về dạy ở Lycée Khải Định và Collège Đồng Khánh với ngạch Professeur de 4ème classe. Từ đó ông đã sinh hoạt vào những chương trình văn hóa ở Huế có giá trị, như đã tham gia vẽ phụ bản, lúc ấy gọi họa bản, nhan đề Trầm bay nhạt khói, gió đưa lay rèm trong Tập văn họa kỷ niệm Nguyễn Du do hội Quảng Tri xuất bản năm 1942, với sự ủng hộ của các hội: Khai trí tiến đức, Khuyến học, Sampic và Trí Tri. Một tập sách được chăm sóc thật kỹ từ hình thức đến nội dung, việc biên tập do Đào Duy Anh, trình bày do họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung.
 
Những tranh lụa sáng tác những năm vừa ra trường như các bức Cá về, Chân dung, Đàn thập lục, Nhà bè đầy tính cách Huế, đài các, thơ mộng. Năm 1941, dưới thời vua Bảo Đại ông đã được đề cử vào Đại Nội dạy cho Thái Tử Bảo Long vẽ. Tham gia nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước: Hà Nội (1939), Sài Gòn (1945), Cao Mên (1939), Nhật Bản (1940) và Vatican (1950) …

Đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý như huy chương Long Bội Tinh (1942), huy chương Kim Khánh (1943). Thời gian sau này cũng nhận được nhiều bằng khen của Bộ Giáo Dục và Nha Mỹ Thuật về những đóng góp xây dựng trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế, giáo dục, đào tạo sinh viên ngành mỹ thuật cho Miền Nam. Ngoài tranh lụa, ông còn vẽ tranh sơn dầu, sơn mài, phấn tiên. Theo ước tính của gia đình lên tới vài trăm bức, nay còn lại khoảng 30 bức tại nhà đang bị mục rã kể trên. Một số cho Hà Nội mượn triển lãm bị thất lạc, một số bị trận lụt năm 1999 làm hư hỏng hết, và sau này một số bán cho các gallery ở Singapore…có những thân hữu trong hội cố đô Huế tại Pháp cũng về tìm sưu tập, lưu giữ tranh ông …
 
Ngoài dạy sinh viên mỹ thuật, ông còn rất tâm huyết với việc phát hiện năng khiếu mỹ thuật ở lứa tuổi nhỏ. Trong phòng Truyền Thống của Trường Đại Học Nghệ Thuật vẫn còn lưu giữ nhiều bài viết của ông về điều này với văn phong giản dị, chữ đẹp, với sự giãi bày sâu sắc về năng khiếu mỹ thuật cũng như mong nuốn đưa mỹ thuật vào nhà trường … (Phan Thanh Bình - Họa sĩ Tôn Thất Đào - Tạp chí Sông Hương online)
 
Nhìn lại tranh Tôn thất Đào ta thấy luôn bàng bạc màu sắc, linh hồn Huế, từ những bức sơn dầu vẽ phong cảnh trong Đại Nội cho đến những con ngựa đá trên Lăng Tẩm, đến những tranh lụa với những phác thảo nghiên cứu tỉ mỉ từng nhóm người trên các phiên chợ, trên các bến sông Gia Hội, trước cửa Đông Ba, cả những luỷ tre làng đều hiền hòa, một tâm hồn nhân ái. Giai đoạn sau với vài bức sơn mài, bức vẽ những thiếu nữ trong vườn chuối là một bức đẹp. Và hình như họa sĩ đã có nhiều tâm sự, nhiều nghĩ suy giàn trải khi vẽ tác phẩm Ngự Bình, đây không phải là tác phẩm hay của ông về mặt nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật khác với văn chương, không là kể truyện. Nhưng lại mang nhiều ẩn chứa trong ông về một tình yêu Huế thiết tha … Tác phẩm Ngự Bình là một trong những tranh ông đã vượt ra khỏi cách nhìn hiện thực theo trường phái Mỹ Thuật Đông Dương để tạo nên một hình tượng mang tín tượng trưng, ẩn dụ qua hình núi mang dáng hình thiếu nữ, tóc người con gái trải dài thành sông núi bao la, xứ Huế hiện ra không phải ở góc nhìn tĩnh lặng mà hoành tráng và phóng khoáng hơn, ý nghĩ của Sông Hương – Núi Ngự đã được sáng tỏ và mang đậm sắc thái u hoài, cổ kính …(Phan Thanh Bình - Họa sĩ Tôn Thất Đào - Tạp Chí Sông Hương online)
 
Những ý nghĩ rời thả trôi theo điệu ca Nam Ai
 
Thử đọc lại vài dòng về Cảnh Sắc Văn Hóa Mỹ Thuật Huế của Huỳnh Hữu Uỷ, một tác giả nổi tiếng, người viết tiểu luận, nhận định về mỹ thuật có lòng nhất, là người con của Huế: Trước tiên phải nói đến sông Hương. Bởi vì chính trên dòng nước trong veo ấy, Cựu Kinh đã soi bóng mình qua nhiều thế kỷ thăng trầm, rồi từ đó đã dựng nên một nền văn hóa riêng: văn hóa Huế…(Huỳnh Hữu Uỷ - Mỹ Thuật Việt Nam Ngày Xưa – Văn Mới 2013). Về mặt mỹ thuật, hiện Huế có trường Đại Học Nghệ Thuật, chưa có Bảo Tàng Mỹ Thuật chung của Huế, chỉ có nhà Bảo Tàng Điềm Phùng Thị và Bảo Tàng Lê Bá Đảng, mong sao sẽ có một Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Huế và chắc chắn phần tranh Tôn Thất Đào sẽ chiếm một gian. Từ đó trên phương diện chính thức của Tỉnh và của Quốc gia mới có thể nói chuyện tu sửa và bảo quản tranh qua sự kêu gọi giúp đở của các Viện Bảo Tàng trên thế giới, gởi chuyên viên hoặc mở lớp hướng dẫn phục chế tranh theo tiêu chuẩn bảo tàng, như UNESCO đã giúp tu sửa phục chế những di tích Cố Đô Huế.

Trong khi chờ đợi những điều ước trên, hằng hai năm Huế đều tổ chức Festival đồ sộ, có thể bớt chăng một giàn đèn chiếu sáng xanh đỏ tím vàng để giúp cho căn nhà cổ xưa của họa sĩ Tôn Thất Đào, nay là Phủ Thờ chung của dòng họ, có thể trở thành khang trang hơn với số tranh dù hư hao còn lại, cũng là nơi lưu niệm, địa diểm đến viếng một họa sĩ tài ba của Huế ở vùng Gia Hội, chưa mong gì sẽ có một con đường nhỏ được đặt tên Tôn Thất Đào.
 

1)- Họa sĩ Tôn Thất Đào 



2)- Mai Trung Thứ - Viễn Đệ - Tôn Thất Đào 
Huế 1960 ( tư liệu DC )



3)- Thắp nhang bàn thờ Thầy Tôn Thất Đào 
Huế 2000 ( tư liệu DC )

 

4)- Đàn thập lục 
Lụa Tôn Thất Đào 



5)- Họa bản Kiều 
khắc gỗ Tôn Thất Đào 

 


6)- Chân dung 
sơn dầu Tôn Thất Đào



7)- Bến thuyền 
sơn dầu Tôn Thất Đào 

 

8)- Cảnh Đại Nội - Huế 
sơn dầu Tôn Thất Đào 



9)- Bến thuyền 
Lụa Tôn Thất Đào 


10)- Chân dung thiếu nữ 
Lụa Tôn Thất Đào 



11)- Sen trắng 
Lụa Tôn Thất Đào 

 

12)- Ban giám đốc, giáo sư, sinh viên 
trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Huế 1959 
( tư liệu Thanh Trí )

Virginia, Aug 10, 2014

Nguồn: vanchuongviet


 

 

Các bài mới
Gặp gỡ (31/12/2019)
Các bài đã đăng