Ý niệm về không gian, ai chẳng có. Ý muốn biểu dương vũ trụ cũng không lạ. Nhưng ý thức được tính tương đối trong vũ trụ thì có lẽ phải đến Trang Tử mới thật sự đặt vấn đề. Với chim bằng, cá côn, ao trời, gió lốc,.. Trang Chu đã “tạo hình” cái vô cùng của tạo vật và cái lẽ tương đối ở đời. Hội hoạ Tây phương, giàu kỹ thuật, không ngừng biến chuyển, nhưng vẫn nghiêng về hiện thực, vẽ những gì thấy được, những gì có thể nắm bắt được, kể cả khi phá thể, trừu tượng. Trong một chừng mực nào đó, hội hoạ Tây phương vẫn chưa thật tình thám hiểm thế giới tâm linh, chưa thật sự trăn trở với lẽ âm dương, sống chết, cái lý tương đối ở đời. Hội hoạ Đông phương nghiêng về đạo, về triết lý sống, nhưng lại không tìm cách phát triển những kỹ thuật hội hoạ tân kỳ cho phép diễn tả một cách đa chiều, đa dạng. Hiếm hoi là những nghệ sĩ dung hợp được kỹ thuật tạo hình phương Tây với triết lý sống phương Đông, để tạo ra con đường nghệ thuật phức âm, đa nghĩa; rọi ánh sáng dưới nhiều góc độ vào những trăn trở của con người về cõi sống, cõi chết, cõi biết, cõi không, về hư vô cực lạc, về cái đạo của con người, ở chỗ Tâm và Vật không còn phân chia giới hạn.
Lê Bá Đảng là một trong những nghệ sĩ gốc Á Đông hiếm hoi, đã nắm được bí quyết giao hoà Đông Tây, tìm đến sự hoà đồng Tâm-Vật, Âm- Dương, Hữu Hạn-Vô Hạn trong tác phẩm nghệ thuật. Trong hành trình sáng tạo, Lê Bá Đảng đi từ con mèo, con ngựa, con trâu đến ... con người, và ở mỗi con, ông đều cố gắng đào sâu đến nguồn ngọn, cội rễ: Với lối nhìn “thấu suốt”, ông có thể chế tạo những “đầu-trâu-tâm-phật”, “hình người-dạ thú”, “khẩu phật-tâm xà”... dễ như trở bàn tay. Qua hơn nửa thế kỷ sống với nghệ thuật tạo hình, dường như ông đã thuộc lòng thế giới “nhân vật cầm thú”, cũng lại quá quen với không gian ba chiều trong lối học hàn lâm, mà cách nhìn “viễn cận” chưa hề thay đổi từ hơn 20 thế kỷ. Lê Bá Đảng muốn trở tay, tìm kiếm, muốn thám hiểm cõi sống chết của con người, ngoài hội hoạ.
Không gian Lê Bá Đảng là sự phản kháng những không gian ba chiều đã trọng tuổi, là sự chống lại sự quan niệm lỗi thời của hội hoạ trường ốc: Vẽ những gì thấy trước mắt. Dù nghệ nhân có thể hồi khứ, ngoái lại dĩ vãng, vẫn phải moi ký ức ra khỏi óc, để nó lên bàn, trước mặt, mà vẽ. Hội hoạ lập thể mở rộng hơn: Đối tượng vẽ, không im lìm, không “chết”, nó có quyền chuyển động. Lập thể mở thêm chiều thứ tư: Chiều chuyển động cho tác phẩm. Hội hoạ trừu tượng phá thể, để ngòi bút xé nát đối tượng, tiêu tùng hình thái, vẽ những tư tưởng. Mỗi nghệ sĩ có thể tạo một lối hoạ, lối nhìn riêng về đối tượng; và người xem cũng có quyền nhìn tác phẩm theo ý mình, độc lập với nghệ sĩ. Hội hoạ trừu tượng phá bung những định kiến, những hàng rào ngăn cách, để con người tự do thưởng ngoạn, tự do tưởng tượng và nghệ sĩ tự do sáng tác. Mối tương quan cố định giữa đề tài bức tranh và sự cảm nhận của người xem không còn nữa. Hội hoạ trừu tượng lấy tư tưởng làm đối tượng, lấy tự do làm khởi điểm và chính ở chỗ tự do ấy, con người mới thấy cái giới hạn của chính mình.
Lê Bá Đảng muốn thoát khỏi tất cả những ràng buộc về quy luật của nghệ thuật cổ điển, kể cả sự “tự do giới hạn’ trong hội hoạ trừu tượng, để mở ra một “cõi ta” của riêng mình, ông sáng tạo không gian Lê Bá Đảng. Không gian Lê Bá Đảng là gì? - Đó là sự gặp gỡ giữa nhiều ngành nghệ thuật: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ... Lê Bá Đảng không chỉ vẽ mà ông tạo hình. -Đó là mối tương quan giữa người, vật và vũ trụ. Cách nhìn của Lê Bá Đảng có gì gần gũi lẽ tương đối của Trang Chu: nhỏ có lý của nhỏ, lớn có lý của lớn, phải cũng vô cùng và trái cũng vô cùng: cứ lấy ánh sáng mà soi thì sẽ thấy lẽ tương đối nẩy ra, và hoạ sĩ thể hiện cái lẽ tương đối ấy trong không gian Lê Bá Đảng. Bỏ cái nhìn một chiều, hướng về trước mặt, ông muốn biến đổi không ngừng các góc độ nhìn.
Ở những mô hình không gian thực tiễn, Lê Bá Đảng nhìn từ không trung, bằng mắt chim, như đứng trên mặt trăng nhìn xuống đất. Không gian thực tiễn thể hiện những nứt nẻ trên mặt đất, những đỉnh cao, vực sâu, trong lòng đất, lòng biển, từ sự bất tận của đại dương đến những li ti như phận người, phận kiến. Trong không gian thực tiễn, với viễn cận vạn lý, Lê Bá Đảng có thể gộp thâu vũ trụ địa chất và thế giới nhân sinh trong chiều kích không quá một thước dài, hai thước rộng. Không gian ảo tưởng gây không khí siêu hình giữa sống và chết. Ông vẽ cái hư vô, cái không và cái có. Kỹ thuật, chất liệu, cách sắp xếp trong mỗi không gian như muốn tạo nên một thế giới, một vũ trụ ngoài màu sắc. Nói khác đi, trong cõi hư vô ấy, màu sắc chỉ là cái cớ để lưu lại với hội hoạ, ông hay dùng sắc nâu, sắc xám, toàn trắng, toàn đen, màu đất nung, chấm phá vài điểm son như những cột mốc để tư tưởng, trí nhớ và tâm linh có thể trụ lại giữa khoảng vô thỉ, vô chung.
Trong loại không gian thứ ba, không gian lịch sử-địa tầng, hoạ sĩ tạo cảm giác thời gian liên kết với không gian: một bên là con đường xuyên suốt quá khứ-tương lai, một bên là viễn cận xuyên địa: mắt nhìn từ cung trăng xuống địa cầu, đâm sâu vào những địa tầng, địa đạo. Dường như hoạ sĩ muốn hình tượng hoá cả một thời kỳ lịch sử dân tộc. Xuyên qua những thửa ruộng khô, những cánh đồng cháy, những bãi cát dài, những ngôi mộ cổ, vào những lớp địa tầng, đi đến trung tâm trái đất. Trên đường xuyên địa, thỉnh thoảng lộ lên vài chiếc bóng lơ lửng, mơ hồ, rêu phong, như thấp thoáng có hồn Trọng Thuỷ đang tìm dấu Mỵ Châu qua vết lông ngỗng xác xơ, tan tác... ở một khoảng tối này, có phải Diêm Vương đang hành hình lũ tội đồ? ở một không gian u ám trên kia, Hằng Nga đang cô đơn, giá buốt trên Cung Quảng?... Tác phẩm của ông có nét hoài nghi về tương lai, kèm những khổ đau trong hiện tại và u hoài về quá vãng.
Nghệ thuật của ông như muốn “thoát hài”, đập vỡ cổ kính để tạo ra không gian phi thời gian, gộp thâu quá khứ, vị lai, địa tầng, địa chất, cõi này, cõi khác trong khoảnh khắc một cái nhìn. Độc đáo. Cô đơn. Nhưng chính sự cô đơn đó là ánh sáng nội tâm soi sáng địa đạo Lê Bá Đảng. S.H
(nguồn: TCSH số 209 - 07 - 2006)
|