LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Có những nơi tinh thần khuất bóng nhường chỗ cho sự thực nảy mầm...
(Albert Camus)
Mỗi chiến trường là mỗi quyển thư đồ sộ về những câu chuyện thai sinh từ khói lửa. Chiến trường, một dòng sông vô tận, chảy mãi không thôi với vô số hồi ức của những con người có những tháng ngày sống trong nó, chịu đựng tất cả sự khắc nghiệt nhất của chiến tranh. Cái tên gọi ấy vốn không dễ gọi với những người yêu hòa bình nhưng hết thảy họ đã làm quen được, vì một lẽ hòa bình được sinh ra từ thành bại của chiến trường ấy và bao con người quen mùi của chiến trường sẽ mất một thời gian dài ở thời bình để quên đi chính nó. Chiến trường, nơi hỗn dung sự mất mát, lòng căm thù, niềm vinh quang và cả bẽ bàng. Trong những tư cách khác nhau của những người đến thăm một chiến trường xưa có những cung bậc cảm nhận khác nhau. Những người cựu binh sẽ xúc động, tiếc nhớ chiến trường xưa, day dứt kỉ niệm với những đồng đội vào sinh ra tử, và họ sẽ làm sống dậy một chương, trang nào đó của quyển thư sinh động kia. Những người trẻ chưa biết mùi vị của chiến tranh, họ sẽ cảm nhận thế nào về cái mùi chiến địa đã tàn phai theo năm tháng. Họ không thể quên, họ đã được học, đồng cảm và biết rằng chiến trường không phải dễ gọi, chiến địa không phải lúc nào cũng màu xanh.
Điện Biên, cái tên do vua Thiệu Trị đặt vào năm 1841 nghĩa là vùng biên thùy vững chải, âu cũng là sự mong mỏi của tiền nhân vào vùng đất phên dậu này. Sự vững chải ấy được khẳng định rực rỡ hơn 100 năm sau bằng chiến thắng Điện Biên Phủ đánh bại thực dân Pháp. Từ một vùng đất yên bình với những ruộng lúa xanh ngút mắt, những núi đồi trập trùng hoa và giờ năm châu chỉ biết đến Điện Biên Phủ bằng hình tượng của một chiến trường. Nhưng có lẽ chúng ta đã lầm, chiến trường ấy đã thay áo xanh, trổ đầy hoa, đẩy lùi tàn khốc ra xa hàng vạn dặm kí ức.
Tháng ba lên Điện Biên, mới thấy chiến địa năm nào ngập hương sắc xuân muộn với chiếc áo trắng mây trời của ban. Tôi gọi loài ban diễm lệ ấy là nàng. Nàng Ban trơ trụi với những chiếc cành khẳng khiu đâm xuyên lên mảng mây sa cuối núi. Nàng lặng lẽ đứng giữa rừng cây ướt át đang thao thao kể về những chuyến trẩy hội yêu rộn ràng của những đôi trai gái Thái lần tìm nhau trong mùa ban bao đời. Một vài giọt nắng rơi rơi trên tấm áo nàng vào một sáng con chim họa mi xòe đuôi hót và nàng phút chốc lộng lẫy khoác lên mình và nhặt lại những hình hài của chiến trường xưa.
Muốn lên Điện Biên Phủ phải qua đèo Pha Đin, nơi được người Thái mệnh danh là chỗ tiếp giáp trời với đất. Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ, với những đoàn dân công hỏa tuyến ngày đêm tải hàng tiếp viện cho chiến trường. Quanh co 32 km qua Pha Đin, cái đẹp nguyên sơ của Tây Bắc hiện lên bên những sườn đồi, dưới thung lũng xa. Màu xanh trải dài ngút mắt từ một cánh rừng sớm, một dải bụi hoang, những đồi chè, núi cao, tất cả toát lên màu xanh nhiều sắc độ. Giữa sự hoang vu đó, những chòm xóm của nàng Ban đẹp nhất khi ở đó, phủ một màu tuyết lên sườn xanh Pha Đin. Đèo Pha Đin là nơi ghi dấu những trận đánh ác liệt của đội quân cách mạng với kẻ thù, nơi gan thử lửa với đạn thù, nơi những chiếc xe thồ chở vượt quá trọng tải 50 lần và những cỗ voi pháo xạ dô-ta nặng nề qua đèo chèn lên thân những chiến sĩ quả cảm.
Ở trên Pha Đin ấy, tôi từng nghe lời Ban, nàng đã dùng thứ ngôn ngữ hùng biện, nói bằng sự im lặng tuyệt đối của sắc trắng nàng mang. Màu trắng làm dịu đi sự mệt mỏi của vạn tấn hàng, vơi đi ác liệt của bom đạn và làm nảy mầm những tình yêu nhỏ cùng hành quân ra trận. Những đoàn quân với đôi chân không biết mệt mỏi và đôi mắt ngời rực niềm tin quyết thắng đã đi trong mùa xuân ấy. Họ đã gửi những bản hùng ca vào rừng ban, chờ đợi tiếng gọi hòa bình thức vang thế giới. Tôi đặt một chân lên đỉnh đèo Pha Đin mặc cho những khóm mây thấp đi qua cùng gió sáng. Núi rừng phả hơi thở mát trong, lành lạnh của mùa xuân năm nào còn đâu đó tiếng đạn bom. Những tiếng súng đã im lặng từ lâu giữa núi rừng Tây Bắc. Các anh đã kéo pháo qua đây, hàng nghìn người cùng vận sức mang “voi” vào chiến trường. Đâu đó dưới lưng chừng dốc, một câu hát Hoàng Vân vang lên: “Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua đèo. Hò dô ta nào! Kéo pháo ta vượt qua núi...”. Họ kéo pháo trong đêm bằng những tiếng hò chấn rung rừng núi, và những hoa ban đã thắp sáng những con đường đoàn quân đi lên Điện Biên Phủ.
*
Qua đèo Pha Đin, cái vị chiến trường thấm từng ngọn gió. Những tượng đài lấp ló trong rừng cây. Thành phố Điện Biên trước mặt, xanh xanh, mơ màng trong sương. Những phố nhỏ chìm trong bóng cây xanh. Kia, dòng Nậm Rốm lặng lẽ uốn quanh thành phố với những bãi bồi cát vàng và sỏi nhỏ. Tất cả nằm gọn trong bát ngát đồng xanh ngút ngàn Mường Thanh ruộng nước. Nếu không đọc một tí gì về Điện Biên, người ta sẽ không tài nào biết được đây từng là một chiến trường ác liệt nhất Đông Dương. Bầu trời Điện Biên thấp, cứ nghĩ với tay là chạm được và khơi một chút nắng đọng lại sau những áng mây.
Một sớm Điện Biên mù sương, tôi thơ thẩn lên Nghĩa trang Đồi Độc Lập. Những đoàn người từ khắp đất nước đến đây với sự thành kính, lặng lẽ mang những bó hoa tươi thắm đi viếng những liệt sĩ đã nằm xuống 60 năm trước. Bó nhan cháy trên tay, khói hòa vào một rừng bia mộ. Trước mắt tôi, 2.432 ngôi mộ liệt sĩ. Tôi hỏi người quản trang, vẫn là câu trả lời: 2.432. 2.432 ngôi mộ liệt sĩ, nhiều nhất trong tất cả những nghĩa trang gìn giữ tro cốt của những anh hùng quên thân vì nước. Tất cả mộ các anh đều không tên, không quê quán, không ngày sinh, không ngày ngã xuống..., chỉ cùng chung ngôi sao vàng giữa tấm bia mộ. Ngôi sao vàng ghi công các anh, những người ngã xuống vì ĐỘC LẬP - TỰ DO. Một Điện Biên Phủ 56 ngày đêm khói lửa, 56 ngày đêm “máu trộn bùn non”, ác liệt đến nỗi không thể đếm, lẫn lộn hết những người ngã xuống. Này đây nữa nghĩa trang A1, Him Lam, Tong Khao, các anh đều chung một ngôi sao vàng ái quốc. Các anh đến từ khắp đất nước, những vùng xa xôi của liên khu IV Trị - Thiên, Thanh - Nghệ, từ vùng đồng bằng Bắc Bộ Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình... xứ Kinh Bắc Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Giang, đến từ Việt Bắc Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà và cả những chàng trai hào hoa Hà Nội. Những thanh niên khỏe mạnh, đầy nhiệt huyết, tràn ước mơ vĩnh viễn nằm lại nơi đây, chốn nghĩa trang mang một tên chung mà các anh khao khát giành lấy: ĐỘC LẬP - TỰ DO. Trên tấm bia chung giữa nghĩa trang, những dòng ghi: “Vinh quang này đời đời thuộc về các anh hùng liệt sĩ”. Phải, tất thảy mọi vinh quang thuộc về các anh, những người làm rạng rỡ non sông, những người “đi chẳng tiếc đời xanh”, đã làm nên tên tuổi Việt Nam rạng rỡ năm châu 60 năm về trước. Bó nhang ít ỏi trong tay tôi làm sao thắp hết những bia mộ này!? Mẹ các anh, chị các anh, đồng đội các anh đã tới, đồng bào cả nước cũng đã tới. Nước mắt thấm ướt núi sông này mấy mươi năm qua ai đong đếm nổi. Chị đã khóc bên mộ các anh, tất cả các anh đều là người thân của chị. Chị vẫn chờ anh, dù biết rằng chiến trường đi không hẹn ngày về, cho đến hôm nay, năm 2014, tóc đã bạc đầu. Anh có nghe thấy không?! Chị lặng lẽ để một cành ban lên mộ anh, cành hoa chung thủy. Thứ hoa ấy ấy có nghĩa là ngon, đẹp đẽ. Tất cả những gì ngon ngọt, đẹp đẽ đều gọi là “ban”. Và loài hoa ấy tượng trưng cho sự thủy chung trong tình yêu đôi lứa. Một cành hoa chị mang đi suốt những mùa xuân xôn xao xứ sở Tây Bắc, chỉ để đợi anh về.
Chuyến xe buồn bã đi trong một cơn mưa nhỏ Điện Biên. Thành phố bỗng trắng xóa đi trong giây phút. Xa xa, đồi A1 nhô lên trầm mặc trong mưa với hàng cây tàn lá, gợi chút ảm đạm khó tả. Tôi lặng lẽ lên ngọn đồi được đánh giá là cứ điểm có tính quyết định nhất trong toàn bộ chiến dịch Điện Biên Phủ, nơi đổ máu nhiều nhất của cả hai bên ở chiến địa này. Bây giờ những cây gỗ tếch, nhãn, chuối đã phủ xanh đồi khiến người ta có thể lầm tưởng đây là một công viên hay trang trại. Nhưng không, lên tới lưng chừng, những giao thông hào chằng chịt giăng các lối đi như những con trăn khổng lồ quấn quanh ngọn đồi đã nghiền nát biết bao người. Người Pháp gọi là cứ điểm Eliane, cuống họng bảo vệ sở chỉ huy trung tâm nên phòng bị rất tốt. Mất 36 ngày đêm giằng co từng tấc đất, hơn 2500 cán bộ chiến sĩ thương vong tại quả đồi này, quân Pháp cũng đánh đổi hơn 1000 người thương vong, những lính Legion, lính Maroc, lính dù thiện chiến đều phơi thây nơi đây. Tính ra, không có chỗ nào trên quả đồi này không có xác người. Những người quả cảm nhất đã nằm lại đây. Chỉ mới đây thôi, người ta khai quật hàng chục bộ hài cốt chiến sĩ, họ chết trong tư thế chiến đấu, tay còn lăm lăm khẩu súng, chân còn tỳ tư thế bắn thù.
Lên trên đỉnh, một cái hố khổng lồ, đen úa được tạo ra vào đêm 6/5 bởi 1000 kg thuốc nổ làm rung chuyển A1. Người Pháp hoàn toàn thất bại trong sáng hôm đó ở A1; ngày 7/5, đồng thời với sự đầu hàng của quân Pháp trên toàn chiến trường Điện Biên Phủ. Giải quyết A1, đồng nghĩa với sự quyết định cục diện toàn chiến trường. Đứng trước cái hố ấy, tôi cảm thấy choáng bởi dư lực của sóng xung kích 60 năm về trước. Đó là cái miệng của A1, sẽ kể mãi chuyện muôn đời trận chiến cam go nơi đây. Cái hố ấy, những ngày mưa, nước đọng như một cái ao, một cái chén nằm trên ngọn đồi khô khan, tàn khốc. A1 mùa nhãn đến, ong bướm lượn khắp đồi thổi bừng sinh khí. Những buồng chuối rừng không ai nghĩ có thể sống trên đồi khô cằn, sỏi đá này đã trổ hoa. Nhặt một chiếc lá tếch, tôi viết lên đó những dòng biết ơn sâu sắc vì những người ngã xuống. Một lời thơ gửi về mộ địa. Bên kia, nghĩa trang đồi A1, hoa ban trắng như dòng ảo ảnh làm loang đi những hình người đang đứng đó, ngồi đó, cùng nhau kể về chuyện 60 năm, một thiên hùng sử. Thật sự tôi không muốn rời khỏi nơi này, muốn đứng mãi bên chiếc hố bộc phá, trong ấy thăm thẳm những huy hoàng và sầu muộn còn văng vẳng đến hôm nay.
Dòng cảm thức lịch đại đang chảy trong tôi khi đứng trên đồi A1, chợt nhớ câu thơ Trần Vàng Sao: “Tôi yêu đất nước này rau cháo/ bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu”. Đất nước tôi mấy nghìn năm rau cháo, nhân dân tôi chân lấm tay bùn, cày sâu cuốc bẫm, bằng chân đất áo vải, tầm vông, chông nhọn bao lần đánh đuổi giặc thù. “Nước chúng ta/ Nước những người chưa bao giờ khuất”. Những người nằm xuống cho những người khác đứng lên và tất cả nhân dân tôi luôn tiến về phía trước, nơi ngọn cờ Độc lập - Tự do mãi mãi là niềm vinh quang khao khát. Nước Pháp cũng khao khát tự do - độc lập khi bị Đức Quốc Xã chiếm đóng. Họ là những người anh hùng sau Đệ nhị Thế chiến, cùng Đồng minh giáng những đòn vào bè lũ Phát xít. Nhưng chỉ phút giây ngắn ngủi ấy thôi, họ lại đội cái lốt mà người Đức vừa bỏ xuống để tiếp tục gieo rắc chiến tranh lên Đông Dương. Nước Việt Nam từ đó ngập tràn bom đạn, những boong-ke choáng ngang đường sá từ Bắc chí Nam, dây thép gai đâm nát trời chiều Bắc Bộ, lửa ngập Tây Nguyên, khói phủ Liên khu IV. Nếu những giống nòi trên thế giới đều yêu thương nhau thì lịch sử đã không nghẹn ngào cho những thang giá trị.
*
Với chiến tranh, những nấc thang ấy càng mong manh. Chiều hôm qua, chúng tôi đến Noong Nhai mới biết nhân dân ta khổ đau thế nào vì cuộc chiến. Noong Nhai, theo tiếng Thái Noong là “Ao”, Nhai là “Vỡ”. Noong Nhai ví như cái ao bị vỡ bờ, nước cạn và cá chết vào cái ngày 25/4/1954. 444 người, đa số là người già, phụ nữ và trẻ em, nhiều gia đình chết không còn một ai ở khu tập trung Noong Nhai. Tôi đứng đó, dưới chân người phụ nữ Thái sầu thảm ôm đứa con thơ đã chết, ánh mắt buồn đau vô hạn. Tượng đài. Chiều lạnh buông xuống dần, tôi cảm giác người mình rần rần trong lớp sương giá của cái “ao vỡ” tịch liêu.
Trích đoạn lịch sử nói rằng, khi chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đang ở giai đoạn 2, giai đoạn quân Pháp đang bị bao vây thế trận. Đứng trước nguy cơ bị thất bại hoàn toàn tại Điện Biên Phủ, vào hồi 14 giờ ngày 25/4/1954, tướng De Castries bất chấp dư luận, ngang nhiên ra lệnh cho 4 máy bay Dakota chở hàng trăm bom sát thương và bom Na-pan đi từ phía Nam lên ném bom xuống trại tập trung Noong Nhai, trong lúc nhân dân đang tập trung đông người để đưa một đám tang. Tôi chợt nhớ đến cách hành xử của người Đức với các chiến dịch Holocaust trong các trại tập trung thời Đệ nhị Thế chiến. Lịch sử sẽ minh định việc thiếu tướng De Castries thực sự không nên đeo cái lon không xứng với tư cách của ông vào hai bên gù vai.
*
Nếu có ai hỏi tôi, chiến trường Điện Biên Phủ đẹp nhất nơi nào, tôi không ngần ngại trả lời rằng đó là Bản Kéo. Bản Kéo là cứ điểm duy nhất trong số 49 cứ điểm Điện Biên Phủ bị quân ta chiếm mà không cần nổ một phát súng, không một chiến sĩ nào ngã xuống. Đó là một chiến địa màu mỡ đầy hoa với những ngôi nhà sàn luôn rộn ràng bếp lửa. Trong một chiều đầy mưa, chúng tôi ngang qua Bản Kéo. Mới 3 giờ chiều mà sương núi theo mưa lấp khuất những lối mòn. Bản Kéo nhìn từ xa như một ốc đảo toàn nhà sàn nổi lên giữa ruộng lúa xanh mênh mông. Hàng trăm nóc nhà san sát nhau, chồng cao chồng thấp như một ngọn núi nhà. Những mái lợp lá vàng rơm lẫn với những mái ngói cũ mốc đen sừng sững giữa núi rừng. Những ngôi nhà im lặng trong cơn mưa nhỏ phủ lên bản làng. Không nghe thấy âm thanh nào ở bản, một vài người già đi từ nương về, gùi đầy những ngô. Mấy đứa trẻ thấy khách lạ nhìn ta từ những ô cửa vuông, mặt mày ngây thơ lem luốc. Nhưng khi ta đứng dưới một chân cầu thang của bất kì ngôi nhà nào, trong ấy bốc lên không khí của cả một lễ hội. Đàn ông và đàn bà xúm xít ngồi bên ché rượu, bếp rực than hồng, nếp nương đồ chín, mâm vại đầy thức ăn thơm. Những cái tiệc nhỏ sau những ngày vất vả đốt nương, gieo mạ. Trời mưa, việc hay nhất là ở nhà, ngồi bên nhau kể những chuyện xa xăm của xứ Thái Tây Bắc. Bên hiên nhà, một cây ban rụng hết lá, hoa tỏa bung một góc trời. Già ngôi bên hông cửa, nhìn hoa, môi nhâm nhi chén rượu. Ban nở rồi. Mùa này năm xưa, cả bản của già làm cơm thết trung đoàn 36 và mấy tiểu đoàn Thái ta về với cách mạng. Họ về chung một nhà. Bản Kéo luôn hòa bình, đã không ai đổ máu xuống đất này. Chị ngồi bế con trong nhà, cất điệu hát ru con, kể chuyện nàng Khôm và chàng Tao Lu tình yêu thủy chung sinh ra dáng hình hoa ban trinh trắng. Bản làng lên khói, mưa sà xuống, sương tràn mênh mông. Tôi rời Bản Kéo như xa một áng mây lành.
*
Tôi đã về đây, “về Điện Biên, về miền hoa ban, lì loọng ơi ta múa chung điệu xoè”. Và sẽ thao thức kể mãi không thôi chuyện nàng Ban đã nở như thế nào trong tháng ba khói lửa của 60 năm trước. Chính nàng, người đã làm nhạt đi khói súng, vơi bớt đau thương, tô điểm và khơi dậy những nội chất mà chúng ta luôn khao khát trong tiếng chuông hòa bình.
Lê Vũ Trường Giang
(SH303/05-14)
>>
Chủ Tịch Hồ Chí Minh với chiến dịch Điện Biên Phủ - PHAN SỸ PHÚC
Giữa mùa hoa ban lên thăm Điện Biên - NGUYỄN QUANG HÀ
Võ Nguyên Giáp - Nelson Mandela: Người kích hoạt nhân tâm - NGÔ MINH
Báng súng và cây đàn - HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
Trên rừng ban mây trắng vĩnh hằng - NHỤY NGUYÊN
“Còn mãi với mùa thu” - một ca khúc trữ tình về vị tướng già - PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Trang thơ Kỷ niệm 60 năm chiến thắng Điện Biên Phủ - Ngô Minh - Hồ Thế Hà - Lê Tấn Quỳnh - Nguyễn Hưng Hải
Mường Phăng - Điện Biên - Nhạc và lời: LÊ PHÙNG
Đôi mắt Điện Biên - Nhạc: LÊ ANH/Thơ: DU AN